Nguồn gốc dân tộc Việt Nam

Cac Bai Khac

No sub-categories

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam quần tụ trên bán đảo Đông Dương trải qua nhiều ngàn năm với đầy đủ những yếu tố cơ hữu: nòi giống, ngôn ngữ, văn hoá… Điạ bàn sinh sống là một hành lang thuận lợi cuả vùng Đông Nam Á, nơi có sự giao lưu qua lại cuả con người và sự sống trên điạ cầu từ thời tiền sử, theo các chiều Nam-Bắc, Đông-Tây, đại dương và lục điạ.
Sự cạnh tranh quyết liệt cuả các siêu cường hiện nay tập trung mọi phương tiện, mọi chiến pháp, nhằm chiếm đoạt khu vực giữ ưu thế thắng lợi đánh bại địch thủ. Sự sống còn cuả dân tộc Việt Nam và các dân tộc láng giềng đang đứng trước những thử thách vô cùng cam go.
Mới đây, một thanh niên Việt Nam thành công bước đầu trong sự nghiệp chính trị tại điạ phương, có dịp xuất hiện rộng rải trước công chúng, đã phát biểu “Tôi là người Việt Nam cuả Dân Tộc Việt Nam”. – “Tôi là người Việt Nam” là sự kiện đơn giản dễ nhìn thấy, nhưng phần tiếp theo “Dân Tộc Việt Nam” phức tạp hơn.
Tuổi thanh xuân cuả nam nữ Việt Nam dù bất cứ nơi đâu, đang hoà mình vươn lên trong xã hội, dành ra những khoảnh khắc nghĩ đến cội nguồn Dân Tộc, tương lai Dân Tộc, sẽ cảm nhận những rung động thiêng liêng cao quí, những ước mơ vị tha, vị quốc. Họ sẽ vượt qua những cám dỗ vị kỷ, tìm thấy ý nghiã cuộc sống cuả một đời người, trong đó có Lẽ Sinh Tồn cuả Dân Tộc.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều sử gia, các nhà khảo cổ học, nhân loại học, tiền sử học, tập trung nghiên cứu về Đông Á và Đông Nam Á. Các học giả dựa vào tài liệu đã có trước, những khám phá đương thời, đưa ra những lý thuyết thuộc các vấn đề liên quan, trong đó có Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam.
Sau đây là những phần trích dẫn tiêu biểu hoặc tóm tắt đại ý của một số tác phẩm nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam
1./ Việt Nam Sử Lược
Việt Nam Sử Lược được xem như là sách giáo khoa cuả học sinh trung học miền Nam Việt Nam trước 1975. Qua tác phẩm, cụ Trần Trọng Kim nêu lên những yếu tố căn bản :
 
‘‘Theo ý kiến những nhà nghiên cứu Pháp thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông Nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ; còn người Thái thì theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái Lan) và nước Lào.
Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam miêu ở, sau có giống Hán tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người Tam miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu rồi dần dần xuống miền Nam. Người Tam miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ’’.
2./ Linh mục Lương Kim Định
Linh mục Lương Kim Định, một sử gia cũng là một triết gia. Sau nhiều năm tập trung nghiên cứu, giảng huấn, dưạ trên những công trình cuả Vương Đằng Linh, Chu Cốc Thành, Eberhard và Eickstedt, giáo sư Lương kim Định đã hoàn thành hai mươi ba tác phẩm, tạo nên hai bộ sách Việt Nho và Việt Triết, khai mở một nền tảng về Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam.
Thuyết của Linh mục Kim Định được tóm tắt như sau: Bách Việt cũng gọi là Viêm Việt gồm có ba nhóm là Âu Việt (Miến Điện, Thái, và Lào), Miêu Việt (Mèo, Mán), và Lạc Việt (Việt Nam và Mường). Giống Bách Việt từ phương Tây tiến vào lục điạ Đông Á dài theo sông Dương Tử, mở rộng lên phương Bắc gần đến sông Hoàng Hà và lan rộng xuống phía Nam. Định cư tại điạ bàn nầy, giống Bách Việt đã tiến vào thời đại nông nghiệp, xã hội được tổ chức nề nếp và ổn định. Họ sinh sống với một trình độ văn minh, văn hóa khá cao do chính họ tạo ra, đó là nền văn hóa Việt Nho.
Tiếp theo, một giống dân du mục khác cũng đến từ phương Tây và lấn chiếm khu vực sinh tồn cuả giống Bách Việt. Sau khi cưởng đoạt đất đai của người Việt, lớp người chinh phục đến sau – người Hoa – sát nhập tất cả những giá trị cuả Việt Nho làm thành văn hóa của Trung Hoa.
3./ Sử gia Phạm Văn Sơn và Việt Sử Toàn Thư.
Sử gia Phạm văn Sơn đã đưa ra nhiều chi tiết trích dẫn từ Cổ thư Trung Hoa đến các tài liệu khoa học:
a- Căn cứ vào các sử sách của Tàu trong đời nhà Chu, ta thấy Bách Việt có mặt ở lưu vực sông Dương Tử rồi sau này tản mác khắp miền Nam bộ Trung Hoa. Nói là Bách Việt, người ta căn cứ vào thuyết truyền kỳ về Lạc Long Quân kết duyên cùng bà Âu Cơ sinh ra trăm con. Sự thực về thời thượng cổ, giống Bách Việt có nhiều nhóm, nhiều bộ lạc sinh sống rời rạc như các dân tộc thiểu số ngày nay tại các miền thượng du. Đến đời nhà Chu, các bộ lạc này đi dần đến chỗ thống nhất do các biến thiên của lịch sử, các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn kiêm tính và họp lại thành năm nhóm lớn sau đây đã đạt đến hình thức quốc gia là: Đông Việt hay Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu, và Lạc Việt.
Việt Sử Toàn Thư cũng nhắc đến sinh hoạt của Việt tộc thời bấy giờ:
Về y phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay và biết dệt vải hoa như người Mường, Thổ, là một thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở Chiết Giang những đồ đồng như đinh ba chân, dao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quý báu đời Xuân Thu.
 
Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh, và các thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tu Lự, thuyền có lầu tức là Lâu Thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua Thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến.
Về kiến trúc, hình như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành bằng đá, gạch. Việt tuyệt thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ còn di tích đến đời Hậu Hán.
Về văn hóa, tinh thần của người Việt, chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán, về ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng, tiếng nói của người Việt khác với tiếng nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai, ba tiếng Hán.
Về phong tục thì có tục xâm mình, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc.
Về tính tình, người Hán cho người Man Di (Việt) có tính khinh bạc, hiếu chiến, sắc sảo về việc binh, không sợ chết. Việt tuyệt thư viết: Họ ở núi mà đi đường thủy, lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Sử ký chép: Vì dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người Hán có ý ghê sợ tinh thần quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của họ. Ngoài ra, người Việt lại thường hoài vọng phát triển về miền Bắc nữa. Đáng chú ý là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh Ngô đã có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om sòm, rồi tự cắt cổ mà chết. Giữa khi quân Ngô ngạc nhiên ngắm cái trò tự sát này thì quân chủ lực của Việt ập đến.)
b- Dựa vào các tài liệu về chủng tộc, Việt Sử Toàn Thư viết:
Cứ những điều chúng ta biết về đặc tính văn hóa thì Việt tộc vào thời đó có lẽ không thuộc ảnh hưởng chủng tộc Mông-gô-lích một phần nào như người Hán, tuy chưa thể nói thấy tục xâm mình là tục đặc biệt của các dân tộc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng ở miền Nam và Tây Nam Á châu (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán, Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông cho đến người Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ của người Man Di). Đám người này, theo các nhà nhân chủng học chia ra hai giống Tạng-Miến (Tibeto-Birman) và Anh-đô-nê-diêng. Nhưng họ không khác biệt nhau mấy, ngay cả về đặc tính kỷ thuật. Theo các nhà bác học Leroy, Gourhan về nhân loại học, người Anh-đô-nê-diêng và giống Tạng-Miến gần nhau quá, nếu có khác nhau thì sự khác biệt đó cũng hết sức mỏng manh, có lẽ vì sự pha trộn tức là sự lai giống. Hai đám dân tộc này phải chăng đã sống gần gủi nhau nên có sự trạng này hay là đã cùng thoát thai ở cùng một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc người ta đề cập đó có lẽ là Việt tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học phát biểu rằng suốt từ miền Axam ở phía Bắc Ấn Độ trải qua Nam bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay còn di tích trong các dân tộc Anh-đô-nê-diêng. Chúng ta có thể ngờ rằng người Việt tộc xưa có lẽ là một nhánh của chủng tộc Anh-đô-nê-diêng. Chủng tộc này trong thời thái cổ đã có mặt hầu khắp miền Đông Nam Á châu.
Sự phân vân của các học giả về sự tương đồng rất gần gủi giữa người Tạng-Miến và người Anh-đô-nê-diêng đã được nhà khảo cứu Bình Nguyên Lộc giải quyết trong một công trình biên soạn công phu : Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam.
4./ Bình Nguyên Lộc với tác phẩm Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam
Học giả Bình Nguyên Lộc hoàn thành tác phẩm với lập luận rằng người Tạng-Miến và người Anh-đô-nê-diêng chỉ là một, thuộc chủng Mã-Lai mà địa bàn phát tích của họ là vùng chân núi Hi-Malaya.
Hi-Malaya có nghĩa là núi của người Malaya. Danh từ Hi này còn thấy được trong ngôn ngữ Nhật Bổn ngày nay. Họ đọc là Khi, nhưng khi cần viết tiếng Khi bằng chữ La tinh, họ vẫn viết là Hi.
(Có lẽ Hi biến thành Hui rồi thành Núi bằng vào những xâu chuỗi biến dạng kỳ dị ở chương Ngôn Ngữ Tỹ Hiệu).
Xuyên qua 892 trang sách, học giả Bình Nguyên Lộc đã nghiên cứu rất nhiều tài liệu của nhiều tác giả viết về con người vào thời thượng cổ và những biến động lịch sử, trải khắp từ Trung Quốc, Ấn Độ, và vùng Đông Nam Á. Ông bổ túc những điều nghi vấn hoặc bỏ sót của một số giả thuyết và đả phá mạnh mẽ hai sử gia Nguyễn Phương (Việt Nam) và Mộng văn Thông (Trung Hoa) với chủ trương của họ : Việt là Tàu và Tàu là Việt.
Tác giả Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam cũng dành ra 240 trang sách để viết về Dấu Vết Mã Lai Trong Xã Hội Việt Nam Ngày Nay qua các minh chứng:
a- Việc kính trọng trống đồng được sử gia Lê Quý Đôn ghi chép trong Kiến Văn Tiểu Lục.
b- Về âm nhạc, trên thế giới hiện nay chỉ có ba dân tộc có cây đàn độc huyền, đó là dân Việt Nam, dân Mã Lai ở Indonesia, và dân Malayalam ở Nam Ấn.
c- Lối kiến trúc nhà chữ Đinh, mái nhà cong qướt lên, nhà bếp cách với nhà ở, ngói dẹp, nhà rầm.
d- Tự trị thôn xã và thần làng.
e- Thờ mặt trời và âm dương vật.
f- Đối chiếu chỉ số sọ:
‘‘Theo B.S. Huard và các cộng sự viên, cái sọ không phải chỉ có đặc sắc ở kích thước, mà các chi tiết về sinh vật hình thái (caractères morphologiques) rất có ý nghĩa quan trọng về mặt chủng tộc. Kết quả đối chiếu chỉ số sọ, ta biết bốn điều quan trọng:
 -Sọ ta khác sọ Hoa Bắc và Hoa Nam rất nhiều về chỉ số và dung lượng.
-Sọ ta giống hệt sọ Mã Lai.
-Sọ ta có tánh cách brachycephale của Mã Lai trong khi đó đa số sọ người Hoa thuộc loại mesocephale.
Tất cả các dân mà tiền sử học nói là Mã Lai đều có sọ Mã Lai.’’
g- Ngôn ngữ tỹ hiệu: ‘‘Ngữ vựng của dân tộc nào cũng vay mượn lung tung, tuy nhiên các cuộc vay mượn còn để dấu thời gian lại. Nếu phải vay mượn của Tàu, thì ta chỉ vay mượn những tiếng chỉ những ý niệm phức tạp, những dụng cụ và vật dụng lạ, chớ không thể nào ta lại vay mượn một danh từ để chỉ Nước là chất mà ta uống hằng ngày và ta đã phải có tiếng gọi hàng ngàn năm rồi.
Hàng vạn tiếng Hán Việt đã thành hình đủ để làm một ngôn ngữ, nhưng không bao giờ thành ngôn ngữ cả vì không ai mà nói chuyện với nhau bằng loại tiếng đó, các quan đại thần, các nhà trí thức nói chuyện với nhau cũng nói bằng tiếng Việt.’’
Bình Nguyên Lộc đưa ra 200 biểu đối chiếu tiếng nói giống nhau của Việt Nam, Mường, Khả, Chàm, Ba Na, Thái, Cao Miên, Mã Lai Á, v.v…
5./ Ngôn Ngữ
Từ trước, đã có nhiều học giả nghiên cứu và đồng ý về sự tương đồng ngôn ngữ của các sắc dân trong vùng Đông Nam Á.
a- Giáo sư ngữ học Nguyễn Đình Hoà trong một bài khảo luận Cần Đả Phá Một Vài Huyền Thoại Về Tiếng Việt, đã nêu lên ý chính:
 ‘‘Trước khi đi sâu thêm vào đề tài hôm nay, chúng ta cần đả phá một vài huyền thoại. Mấy người nước ngoài đã hỗn xược nói rằng tiếng Việt là một thổ ngữ của tiếng Trung Hoa. Họ quên rằng tiếng Việt, tiếng Nhật Bản, tiếng Cao Ly, chỉ là những ngôn ngữ đồng văn với Hoa ngữ vì cả bốn đều xử dụng chữ Hán của Trung Quốc chứ bốn ngôn ngữ đó không có quan hệ thân tộc tức họ hàng gì với nhau cả. Ngày nay các nhà chuyên môn đã đồng ý rằng tiếng Việt và tiếng Mường là ngôn ngữ chị em thuộc dòng Môn Khờ Me trong đại ngữ tộc Nam Á (Austroasiatic)’’.
b- Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng đã dành suốt cuộc đời nghiên cứu về ngôn ngữ cuả dân tộc, phát hành một công trình biên soạn giá trị : Tự Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt (Vietnamese Cognatic Dictionary).
Bác sĩ Vọng giải thích: “Nhưng trên hết là, với 275 ngàn thí dụ đồng nguyên (cognatic correspondence) và hàng chục bản đồ ghi chỗ ở và nơi xuất phát cuả các dân tộc bộ lạc ở khắp vùng Đông Nam Á và bảng so sánh tiếng đồng nguyên cuả hàng chục ngôn ngữ Đông Nam Á với chừng 27 ngàn tiếng Việt cuả cả ba miền Bắc, Trung, Nam, để cho ai cũng thấy, người Việt cũng như người ngoại quốc, hiểu và ý thức được rất rõ ràng là tiếng Việt là tiếng Việt, không phải do Tàu mà ra, trái lại tiếng Việt là anh em họ hàng với bao nhiêu là tiếng nói khác ở Đông Nam Á, mặc dù qua hơn hai ngàn năm, cái chữ viết khác nhau cuả các thứ chữ ĐNA đã làm cho ta lầm tưởng là cái âm, cái tiếng, cái nghiã cuả các ngôn ngữ đó cũng khác nhau luôn ! Thật ra chúng nó đều giống nhau đến mức ngạc nhiên, sững sờ.”
Bác sĩ Vọng cũng nói thêm: “Nên biết rằng từ ngàn xưa, tiếng Việt đã được nói từ Động Đình Hồ qua tới Ấn Độ chân núi Himalaya và xuống tới 10 ngàn hòn đảo cuả Indonesia, theo các nhà ngữ học cuả giòng ngôn ngữ Austronesian.
Tiếng Mường là “tiền Việt”, giống nhau 95% với tiếng Việt. Tiếng Nùng, Thổ, Tày cũng lai 50% Thái Lào, 50% Việt mà đáng kể là họ dùng 100% tiếng Hán Việt.
Dân H’mong ở phiá Tây Nam hồ Động Đình vẫn có khoảng 300 tiếng nói chung với dân Việt. Người Khasi ở chân núi Himalaya vẫn nói cả hàng trăm câu tiếng Việt xưa y hệt như chúng ta (mi shông h.ơ ni # tôi sống ở đây). Dân Indonesia và Malaysia (230 triệu) cũng có cả ngàn tiếng một y như tiếng Việt.
Tiếng Chăm có chung cả 3.500 từ ngữ thông thường giống với tiếng Việt miền Trung. Sao vậy? Là vì tiếng Việt chung dòng với tiếng Chăm đã từ mấy ngàn năm về trước chớ không phải chỉ có từ khi dân Việt mới biết đến dân Chàm, lại càng không phải chỉ mới từ khi Việt đánh nhau với Chàm.
c- Một sơ đồ khảo cứu ngôn ngữ trên thế giơí, nhan đề : ‘‘Language Families of the World’’ phát hành năm 1999 cuả hai giáo sư Joseph Greenberg và Meritt Ruhlen thuộc trường đaị học Stanford (California) đã sắp xếp tiếng Việt và Khmer vào nhóm Austroasiatic cùng ngữ tộc vơí các tiếng Tagalog, Malay, Javanese, Malagasy, Fijian, Samoan, Tahitian, Miaori, Hawaiian, Thai, Lao, Hmong, Miến, gồm 1175 ngôn ngữ và do 293 triệu ngươì xử dụng
6./ Văn Hóa Hòa Bình.
Nền văn minh cổ thời của người Đông Nam Á đã được Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim, giáo sư nhân loại học của trường Đại Học Hawaii đúc kết trong một bản nghiên cứu nhan đề: Ánh Sáng Mới Trên Một Quá Khứ Bị Quên Lảng (New Light On A Forgotten Past) với những minh chứng tích cực:
Trước hết giáo sư xác định, Đông Nam Á thời tiền sử gồm có hai phần. Phần thứ nhất là lục địa Đông Nam Á, trải dài từ núi Chin Ling phía Bắc sông Dương Tử đến Singapore và từ biển Nam Hải kéo về hướng Tây xuyên qua Miến Điện vào đến Assam. Phần kia gọi là Đông Nam Á hải đảo là một hình cung từ đảo Andaman phía Nam Miến Điện vòng qua Đài Loan bao gồm Indonesia và Philippines.
Giáo sư và cộng sự viên đã làm công tác khai quật tại Non Nok Tha, một địa điểm biên giới Lào, Thái và đã tìm thấy nhiều di chỉ quan trọng:
Một mảnh gốm vỡ có dấu vết vỏ trấu của hạt lúa Oriza sativa và khi đem xác định niên đại bằng carbon được biết rằng chậm nhất là vào khoảng 3.500 năm trước công lịch. Như vậy hạt lúa này đã hiện diện tại đây hơn 1.000 năm trước các hạt lúa đã tìm thấy tại Ấn Độ và Trung Quốc đã được các nhà khảo cổ ngày trước cho rằng là hai nơi đầu tiên của thế giới biết dùng lúa gạo làm thực phẩm.
Một nông dân người Thái đào được một lọ gốm có hình vẽ giống như lọ gốm ở khu vực Udon Thani, Đông Bắc Thái Lan có niên đại 4.700 năm trước công lịch.
Những vòng đồng hoen rỉ vẫn còn nằm trong xương cánh tay và xung quanh đó những cơ thể khác có ít hoặc không có trang sức, chứng tỏ rằng nơi đây đã hình thành một xã hội được tổ chức hoàn chỉnh từ thiên niên kỷ thứ hai trước công lịch.
Xác định niên đại bằng carbon, chúng ta biết rằng những rìu bằng đồng được đúc bằng khuôn đôi bằng đá đã được chế tạo tại Non Nok Tha vào khoảng 3.000 năm trước công lịch. Như vậy, những dụng cụ bằng đồng này có sớm hơn 500 năm so với những dụng cụ bằng đồng tìm thấy tại Ấn Độ và 1.000 năm trước Trung Quốc. Những khuôn đúc hình chữ nhật được tìm thấy từng cặp, chứng tỏ rằng chúng được đặt sát nhau và những mãnh vỡ của lò đúc và mẫu đồng vụn vươn vãi đó đây làm chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa, nơi đây từ ngàn xưa là một xưởng chế tạo rìu.
Những phần cơ thể trâu bò chôn theo những đám táng thời cổ sỏ tại Non Nok Tha được xác định là những gia súc tương tự với giống bò Á châu Zebu (Bos Indicus). Đây là sự tìm thấy về việc nuôi súc vật làm thực phẩm có sớm nhất tại vùng Đông Á.
Chester Gorman, một nghiên cứu sinh, trình luận án tiến sĩ tại Đại học Hawaii đã tìm thấy ở Hang Tử Thần (Cave of Death) gần một con suối đổ vào sông Salween của Miến Điện, những phần của thực vật đã bị carbon hóa gồm có hạt đậu, hạt giẽ, hạt tiêu và những mẫu của quả bầu, quả dưa nằm vươn vãi với những dụng cụ đồ đá kiểu mẫu Hòa Bình.
Những mẫu xương của súc vật bị chặt ra nhưng không bị đốt cháy khiến cho chúng ta nghĩ rằng thịt đã được nấu chín trong những ống tre tươi như người ta vẫn làm hiện nay ở vùng Đông Nam Á. Xác minh niên đại bằng carbon 14 cho thấy rằng các vật liệu này đã xuất hiện từ 6.000 năm đến 9.700 năm trước công nguyên.
Sau khi trình bày thêm nhiều chi tiết khác nữa, Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim đưa ra giả thuyết:
a- Đồng ý với Sauer rằng cây trồng dùng làm thức ăn được thực hiện trước tiên bởi cư dân của văn hóa Hòa Bình vào khoảng 15.000 năm trước công lịch.
b- Những dụng cụ bằng đá mài được tìm thấy ở Bắc Úc Đại Lợi, xuất hiện 20.000 trước công lịch, có nguồn gốc xuất phát từ văn hóa Hòa Bình.
c- Thay thế quan niệm cổ điển trước đây cho rằng những di dân từ phương Bắc đã đem những tiến bộ quan trọng đến vùng Đông Nam Á thời tiền sử bằng giả thuyết rằng nền văn hóa đồ đá mới của vùng Bắc Trung Quốc được tìm thấy ở Yangshao là do văn hóa Hòa Bình phát xuất từ Bắc Đông Á và di chuyển lên hướng Bắc vào thiên niên kỷ thứ 6 hoậc thứ 7 trước công lịch.
d- Những thuyền độc mộc được xử dụng trước tiên trên các sông ngòi vùng Đông Nam Á trước thiên niên kỷ thứ 5. Khoảng 4.000 năm trước công lịch, bộ giàn bằng cây gắn chung quanh thuyền được phát minh làm cho thuyền trở nên vững vàng hơn khi vượt biển, đã đưa đến những cuộc hải hành từ Đông Nam Á đến Đài Loan và Nhật Bản, du nhập vào đất Nhật cách trồng cây khoai sọ và một số hoa màu khác.
e- Vào khoảng thiên niên kỷ thứ 3 trước công lịch, những cư dân Đông Nam Á thành thục xử dụng ghe thuyền đã đi vào quần đảo Indonesia và Philippines. Họ mang theo những kiểu mẫu nghệ thuật hình xoắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật dùng trang trí đồ gốm, khắc vào gỗ, xâm mình, quần áo và dệt sợi. Đây là hình thể nghệ thuật tương tự với hoa văn trên đồ đồng Đông Sơn.
f- Người Đông Nam Á cũng đi về hướng Tây, đến tận Madagasca vào khoảng 2.000 năm trước đây. Họ đã đóng góp một số cây trồng hữu ích đối với nền kinh tế Đông Phi châu.
g- Cũng vào thời ấy bắt đầu có sự tiếp xúc giữa Việt Nam và Địa Trung Hải bằng đường biển làm phát triển ngành thương mại. Nhiều dụng cụ đồng thau khác thường xem như có nguồn gốc phát tích từ Địa Trung Hải đã được tìm thấy ở Đông Sơn.
7./ Stephen Oppenheimer và tác phẩm Thiên Đường ở Phương Đông : Lục Điạ Chìm Đắm cuả Đông Nam Á  ( Eden in the East : The Drowned Continent of  Southeast Asia)
Lý thuyết chính yếu cuả tác phẫm là, lần đầu tiên đặt Đông Nam Á vào trung tâm cuả các nguồn văn hoá và văn minh.
a- Oppenheimer chứng minh rằng khoảng 9.000 – 10.000 năm về trước, cư dân vùng Đông Nam Á không chỉ là ngươì săn bắn và hái lượm ban sơ như giới khảo cổ Tây phương thường mô tả mà là những nhà nông chuyên nghiệp biết trồng luá nước, khoai lang, khoai sọ.
b- Dưạ vào yếu tố và dữ kiện điạ chất học, Oppenheimer  cho rằng khoảng 8.000 năm trước đây, mực nước biển dâng cao tràn ngập các vùng đất thấp làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế giơí di tản khắp nơi, đến những vùng đất cao hơn để sinh tồn. Họ theo hướng Nam đến Úc Đaị Lơị, hướng Tây đến Ấn Độ và hướng Bắc vào vùng đất liền Châu Á. Trong cuộc di cư vĩ đaị nầy, họ đem theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, tổ chức xã hôị đén cac vùng đất mơí. Những ngươì lánh nạn đaị hồng thuỷ nầy là những hạt giống cho nền văn minh lớn khác mà sau nầy được phát triễn ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai cập và Điạ Trung Hải.
c- Công trình nghiên cứu cuả Oppenheimer còn dựa trên nguồn taì liệu khoa học đáng tin cậy, đó là khoa di truyền học và từ đó tác giả kết luận: ‘‘Tôi cho rằng nhiều ngươì phaỉ rơì bỏ Vùng duyên haỉ cuả họ ở phương Đông vì lụt lôị. Những ngươì lánh nạn nầy đã vun đắp những nền văn minh vĩ đại ở phương Tây’’ .
 Trong lãnh vực di truyền học, tháng ba năm 2007, các nhà khoa học thuộc Đaị học Durham và Oxford cuả  Anh quốc đã nghiên cứu DNA của heo rừng và heo nhà ở vùng Nam Thaí Bình Dương và nêu giả thuyết mới về nguồn gốc cư dân các đảo ở vùng nầy .
Tiến sĩ Keith Dobney thuộc khoa khảo cổ Đaị học Durham cho biết đã tiến hành nghiên cứu loại gene ít bị biến đổi trên 781 con heo ngày nay và gene heo sống từ thơì xa xưa lấy được từ các Viện bảo tàng. Họ noí rằng do có môí liên quan gene rõ ràng giữa heo hiện nay ở Việt Nam và heo ở các đảo Sumatra, Java, New Guinea, New Oceania cùng nhiều đảo Nam Thaí Bình Dương, nên họ cho rằng phần lớn các cư dân sống  trên các đảo nầy có nguồn gốc từ Việt Nam chứ không từ Đài Loan.
Tiến sĩ Greger Larson, tác giả chính cuả nghiên cứu, nhận xét rằng heo tuy bơi giỏi nhưng không đến mức có thể bơi đến tận Hawaìi. Như thế chúng phaỉ được ngươì di cư chuyên chở đến đó và đây là minh chứng tuyệt vời về hoạt động di cư cuả con ngươì. Theo ông, tổ tiên cuả các cư dân trên các hòn đảo xa xôi đã rời Việt Nam cách đây vào khoảng 3.600 năm và họ đã đi qua nhiều hòn đảo trước khi đến các đảo Nam Thaí Bình Dương. Ông hy vọng nghiên cứu nầy sẽ mở ra một cửa sổ mơí về nguồn gốc cư dân vùng nầy .
8./ Giáo sư Cung đình Thanh và tác phm Tìm về Nguồn Gốc Văn Minh Việt Nam Dươí Ánh Sáng Mơí của Khoa Học.
Song song vơí lý thuyết cuả Oppenheimer, taị Chương 8 viết về Nguồn Gốc Dân Tộc theo Cổ Sử Nhân Chủng và Khảo Cổ Học, giáo sư Cung đình Thanh đưa ra kêt luận :
‘‘Khi nước biển đã đến thơì kỳ Flandrian, phù hợp với giai đoạn giãn băng cuôí cùng vào khoảng 18.000 năm trươc đây, cho đến lúc đồng bằng sông Hồng bắt đầu bị đe doạ thì ngươì Cổ Vỉnh Phú một phần di cư lên bám trụ ở vùng Tây Bắc và vùng các hang động cao ở Hoà Bình, phần khác, lớp có óc phiêu lưu hơn đã đi lên phiá Bắc qua hai ngả, một ngả đi qua Vân Nam đến Tứ Xuyên, Quế Châu, Thiểm Tây, một ngả đi theo ven biển phiá Đông lên đến Triết Giang, Giang Đông, Sơn Đông và gặp những vùng đất tốt mới, những môi trường thuận lợi, họ đã ở laị sinh sống, phát triển và từng nhóm họ đã tào lập ra những nước nhỏ mơí. Về sau chính những nước nhỏ nầy, khoảng 3.000 nươc, đã qui tụ laị để trở thành những nước lớn, sẽ tham dự vào việc tranh dành quyền làm chủ đất Trung Nguyên ở thơì Xuân Thu, Chiến Quốc (770 – 221 trước Kỷ Nguyên).
Khi nước biển bắt đầu rút và đồng bằng Vĩnh Phú từng bước bắt đầu được taí lập vào khoảng từ 6.000 năm trở laị đây, thì laị thấy có sự hôị tụ những ngươì trở laị đồng bằng đó. Đó là bắt đầu cuả Văn Hoá Phùng Nguyên, cũng là thơì đại đồng thau và thơì kỳ thành lập ra nhà nước Văn Lang cuả Vua Hùng …
Khi ngươì Hoa Hán thống nhất đaị lục dươí triều Tần, Hán khiến những ngươì gốc Bách Việt không chịu đồng hoá phải rời bỏ Trung Nguyên. Bằng cớ nữa là có dấu ấn văn hoá phương Bắc góp phần xây dựng lên Văn Hoá Phùng Nguyên và nhà nước Văn Lang vậy. Đó là chưa kể đến cách đôí xử kỳ thị cuả các chính quyền Hoa Hán từ đời Tần về sau đôí vơí dân bản điạ gốc Hoà Bình.’’
9./ Harold Wiens và tác phẩm  Trung Quốc Tiến  Quân Vào Vùng Nhiệt  Đới (China’s March Toward The Tropics).
Thiên khảo luận nầy xây dựng trên  chín Chương gồm trong 352 trang sách và 32 bản đồ phụ lục, chứa đựng những kiến thức uyên bác cuả một  giáo sư đại học, Đaị học Yale.
Ngay tại Chương I, giáo sư Harold Wiens (1912-1971) đã nêu lên chủ đề dân tộc: “Người Hoa Hán phát triển văn hoá trong khu vực Hoàng Hà, mở rộng vào vùng Dương Tử và rồi đến Tây Giang. Họ chinh phục và xua đuổi, hoặc tiêu diệt hoặc đồng hoá những bộ lạc đang cư ngụ trên những bình nguyên cuả Dương Tử và Tây Giang (Nguyên văn: The Han-Chinese, developing their culture in the Huang-Ho region, expanded first into the Yang-Tzu and then in the Hsi-Chiang region, conquering, and driving out, or exterminating, or absorbing the tribes peoples occupying the Yang-Tzu and Hsi-River valley)”.
Trên cơ sở nầy, giáo sư khai triển đầy đủ các chứng tích, giải đáp thoả đáng các vấn đề lịch sử, chính trị, văn hoá tồn tại xưa nay trong khu vực:
– Dân tộc nào đã chiếm lỉnh khu vực rộng lớn miền Nam Trung Quốc trước khi ngươì Hoa Hán (Han-Chinese) đến.
– Những yếu tố cơ bản nào làm nên những đợt sóng bất tận cuả ngươì Hoa Hán tràn về phương Nam, phủ ngập các cư dân bản địa và nền văn hoá cuả họ.
– Những gì đã xảy ra cho những sắc dân ở miền Nam Trung Quốc không thuộc giống nòi Hoa Hán.
– Kẻ thống trị đã áp dụng kỹ thuật bành trướng đế quốc như thế nào để củng cố những phần đất chinh phục được ở phương Nam và đồng hoá những dân tộc không thuộc dòng giống Hoa Hán.
– Những chướng ngaị về điạ lý, văn hoá, chính trị nào đã làm chậm bước tiến cuả chủ nghiã đế quốc Hoa Hán.
– Thực chất về môí liên hệ cuả chính quyền trung ương đôí vơí những quốc gia trong vùng Đông Nam Á có chung biên giớí và sự kiện nầy sẽ ảnh hưởng như thế nào vào khu vực Đông Nam Á.
– Cuối cùng, làm thế nào để ngăn chận sự bành trướng của người Hoa Hán vào vùng nhiệt đới.
Mặc dù được phát hành năm 1954 và chỉ còn lưu trử trong các thư viện, nhưng nôị dung cuả sách với những sự kiện lịch sử, địa lý, nhân chủng, văn hoá là những yếu tố đã có từ nhiều ngàn năm trước và liên tục hiện hữu cho đến ngày nay nên tác phẫm vẫn giữ được giá trị bền vững.
Riêng đôí với người Việt Nam chúng ta, đây là tài liệu tham khảo cần thiết vì lý do sau khi rút quân khỏi các tỉnh biên giơí phiá Bắc năm 1979, Đặng tiểu Bình – một lãnh tụ hàng đầu cuả Trung Cộng – không kiềm chế được những cảm xúc sôi nổi, đã bộc lộ ẩn ức lịch sử giữa một cuộc họp báo :  ‘‘Việt Nam là vấn đề hàng trăm năm, hàng ngàn năm đôí với Trung Quốc’’!
10./ Phạm việt Châu và tác phẩm ‘‘Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh’’
Tác giả Phạm việt Châu (1932-5/5/1975) xác định rõ ràng vị trí điạ lý, yếu tố văn hoá, chính trị, và lẽ sống còn cuả giống nòi Bách Việt :
“Bàn tiếp đến cái mà chúng tôi goị là vị trí định mệnh, nếu đứng trên bình diện nhân văn, chúng tôi nghĩ đến caí lò pha trộn các món văn hoá, thì đứng trên bình diện nhân chủng, chúng tôi laị nhìn thấy hình ảnh caí hồ lớn nằm kề lục điạ Đông Á để hứng lấy và bao bọc tất cả những bầy cá bị săn đuôỉ từ các dòng suôí, dòng sông tản lạc về; chúng tôi muốn noí tơí các bộ tộc Bách Việt qua nhiều đợt nam thiên dươí áp lực cuả Hán tộc.
Ngày nay, xét về xã hôị Người taị Đông Nam Á, những nhà nghiên cứu nhân chủng không khỏi ngạc nhiên khi thấy một khu vực có vẻ hỗn tạp nhất nếu nhìn thoáng qua bên ngoài, lại cũng là nơi tương đôí thuần nhất nếu đào sâu, bới rễ bên trong. Thật vậy, trừ những sắc dân cổ còn laị rất ít và khôí ngươì Trung Hoa mơí hình thành gần đây, tất cả thành phần dân số chính cấu tạo nên tập thể Đông Nam Á ngày nay đều bắt nguồn từ chủng tộc Bách Việt mà các nhà nhân chủng học Tây Phương khi phân loai thường goị là Indonesian hay Malay.
Vơí hình ảnh cái hồ, chúng tôi cũng nghĩ đến đoạn đường chót cuả cuộc hành trình lịch sử. Thật vậy, chúng ta không còn đường nào, nơi nào để mà thiên di xa hơn nữa. Cửa ngỏ thế giơí đã khép laị trong khi áp lực từ phương Bắc, dươí hình thức nầy hay hình thức khác vẫn tiếp tục đè nặng xuống. Chúng tôi cũng không thể  nghĩ khác hơn là ý nghĩ cuả người Thái, anh em ở bên kia bờ sông Cửu về cùng một mối lo chung cuả nhân dân ‘‘Trăm Việt trên Vùng Định Mệnh’’ nầy. Ý nghĩ ấy đã được cựu ngoaị trưởng Thaí, Thanat Khoman phát biểu : Không còn có chỗ nào cho chúng tôi lui thêm được nữa! Do đó vơí chúng tôi nơi đây là kháng điểm đầu tiên và cũng sẽ là kháng điểm cuối cùng !
Là kháng điểm cuối cùng, thật thế ! Cái ý nghĩ bi tráng ấy phải được cảm chiêu sâu sắc để từ đó khơi dậy ý thức đề kháng tự nhiên, chẳng riêng vơí Trung Hoa mà còn cả vơí các cường lực khác’’.
—- o—0— o—
 Loài ngươì tồn taị một cách ưu thế giữa các sinh vật khác nhờ vào khả năng tìm hiểu, suy luận. Từ nhân tính nầy con ngươì không thể chỉ ăn, ngủ, dửng dưng, vô cảm vơí những hiện tượng xảy ra chung quanh, vì vậy họ đã hình thành các tôn giáo, hoặc lao vào khoa học để tìm sự giải đáp cho các câu hỏi : con ngươì từ đâu đến, đang làm gì, và sẽ đi về đâu?
Trường hợp một ngươì Việt Nam cũng mang niềm ưu tư đó vơí những chi tiết rõ rệt hơn: dân tộc chúng ta có nguồn gốc từ đâu, đang sinh sống như thế nào và rôì tương lai sẽ ra sao, thì bài viết nầy được xem như là sự nhắc nhở bước đầu. Con ngươì trong cuộc sinh tồn cũng như chiến binh khi lâm trận, ngoàì những trang bị đầy đủ còn phải xác định vị trí xuất phát hay là điểm đứng cuả mình để di chuyển không lạc lôí, phân biệt bạn thù.
Những tranh luận sôi nôỉ, những biên khảo công phu về nhân chủng và văn hoá cuả Vùng Đông Á, Đông Nam Á đang được minh định bằng những dữ kiện phức tạp hoặc những khám phá mơí nhất, hầu hết đều đồng ý về một ranh giơí giữa Việt tộc và Hán tộc và sự cạnh tranh sinh tồn giữaViệt và Hán khởi sinh từ nhiều ngàn năm trước taị lưu vực Dương Tử, Hoàng Hà. Các cư dân đã lập nên các quốc gia trong Vùng Đông Nam Á, các sắc tộc trong các khu tự trị taị Hoa Nam đều có chung một cội nguồn phát tích. Họ là những dân tộc trong Đaị Tộc Bách Việt.
Sự sinh tồn cuả Việt tộc trong thời tiền sử đang được tái hiện, phù hợp với nhu cầu cuả nhân loại, đánh trả mưu đồ bành trướng cuả Đế quốc Hoa Hán trong thời đại toàn cầu hoá. Hoa Kỳ và các quốc gia tiếp giáp với Thái Bình Dương đã thoả thuận xây dựng một khu vực liên hiệp kinh tế rộng lớn bằng Hiệp Ước Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) gọi tắt là TPP.
Khu Vực Hoá (Regionalisation) là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình Toàn Cầu Hoá (Globalisation). Vùng Đông Nam Á Châu văn minh, giàu mạnh, tự do, dân chủ là một trục quan trọng có đủ khả năng duy trì sự quân bình giữa các thế lực trên thế giới.
Các dân tộc Đông Nam Á kết hợp khắng khít với nhau như một liên minh Bách Việt, một chiến tuyến đa diện (kinh tế, văn hoá, chính trị, quốc phòng) sẽ chận đứng làn sóng chinh phục ồ ạt tiến về phương Nam một lần nữa cuả con cháu Tần Thuỷ Hoàng bằng bất cứ chiến pháp nào: đồng Yuan hoặc hạm đội.
 
Biển Đông Việt Nam thường được xem là nơi có nhiều nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới. Một vài khuôn mặt quốc tế gốc Trung Đông không phải Á Rập khuyến cáo Mỹ chia đôi Thái Bình Dương với Trung Cộng để giữ lấy hoà bình. Một sáng kiến quái đản và hèn hạ ! Giải pháp Đối Tác Chiến Lược Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương có tính nhân bản và ưu thế tất thắng.
Trong vận hội nầy, mỗi người Việt Nam gạt bỏ tất cả những vị kỷ, thành tâm tìm đến với nhau, tận tâm, tận lực cùng nhau xoay chuyển thời cơ, lật đổ bạo quyền cộng sản toàn trị hiện hành, xây dựng một chế độ tự do, dân chủ thật sự. Đời sống con người có giới hạn, nhưng Dân Tộc trường tồn là danh dự và là trách nhiệm cuả mỗi người Việt Nam.
Chúng ta, những ngươì Việt Nam trong lãnh thổ từ Đồng Văn đến Cà Mau, từ đồng bằng đến miền sơn cước, ngươì Kinh, Thượng, Khmer, Chàm …gọi nhau là đồng bào với ý nghĩa chính xác, thiêng liêng và xúc động.
Thế Việt  (2/16)

PHẢI CHĂNG ÐÃ ÐẾN LÚC CHÚNG TA CÓ THỂ KHẲNG ÐỊNH ÐƯỢC NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT NAM?

Cung Đình Thanh

Vanhoahoc.edu.vn: Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương, Vanhoahoc.edu.vn xin giới thiệu bài viết của Cung Đình Thanh về nguồn gốc dân tộc Việt Nam viết vào dịp này cách đây 8 năm tại Úc.

PHẦN DẪN NHẬP

Gần đây cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc. Một trong những thành tích về vấn đề này cần được lưu ý là quyển Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam của Nguyễn Khắc Ngữ do Nhóm Nghiên Cứu Sử Ðịa Việt Nam xuất bản tại Montréal (Canada) năm 1985. Nói là đáng lưu ý bởi quyển sách nhỏ này (172 trang) trình bầy những dữ kiện và áp dụng một lối lý luận rất khoa học. Theo Nguyễn Khắc Ngữ thì : “đại để có thể chia các giả thuyết (nguồn gốc dân tộc Việt Nam) thành bốn loại tiêu biểu:

–  Giả thuyết con Rồng cháu Tiên

–  Giả thuyết Bách Việt

–  Các giả thuyết của các tác giả miền Nam

–  Các giả thuyết của các tác giả miền Bắc”.

Phân chia như vậy e rằng vừa thiếu lại vừa dư. Quá thiếu vì nếu cứ ý kiến của một tác giả được kể như một “giả thuyết” thì bảng liệt kê trên còn thiếu nhiều giả thuyết chưa kể ra. Quá dư vì những giả thuyết mà Nguyễn Khắc Ngữ gọi là giả thuyết Bách Việt, giả thuyết của các tác giả miền Nam, miền Bắc … thực ra chỉ là con đẻ của một trong hai thuyết :

– Thuyết thứ nhất dựa vào văn bản (những bộ sử hay truyện của người xưa viết ra để lại) chủ trương người Việt có nguồn gốc từ phương Bắc đi xuống. Các tác giả có công xây dựng nên thuyết này đầu tiên phải kể đến những học giả người Pháp như Edouard Chavannes, Léonard Aurousseau. Nhiều học giả nổi tiếng người Việt đã phụ họa thêm vào thuyết này như Ðào Duy Anh, Trần Trọng Kim … Có điều lạ cần nhấn mạnh là những học giả người Pháp tuy có gốc thực dân, dựa vào những sách của các tác giả Trung Hoa cũng thực dân không kém như Tư Mã Thiên, Hoài Nam Tử … đã giả thuyết rằng người từ phương Bắc đây, vốn thuộc đại tộc Bách Việt, vì sự bành trướng của nòi Hoa Hán dưới thời Tần nên phải di cư xuống Bắc Việt để cùng với dân bản xứ đã có sẵn ở đó từ trước (Madrolle CL. Les populations de LIndochine, Paris 1918) lập nên nước Văn Lang.

Những tác giả vốn là người Việt nói về nguồn gốc dân mình lại không bằng những ông Tây kể trên. Nhiều người còn nghi ngờ cái nguồn gốc Bách Việt của mình, cuối cùng (đã phải là cuối cùng chưa?) còn sản sinh ra một đứa con hoang cho rằng dân Việt Nam chỉ là một bộ phận của người Trung Hoa hết đợt nọ đến đợt kia sang thực dân ở đây, khi hoàn cảnh thuận lợi đã lập ra nước riêng có tên là Việt Nam (Nguyễn Phương, GS Ðại Học Văn Khoa – Việt Nam thời khai sinh – Viện Ðại Học Huế 1965).

Mới xem giả thuyết này có vẻ không sai vì quả đã có một cuộc di cư của người từ phía nam sông Dương Tử, vùng nay thuộc các tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, Quý Châu, Quảng Ðông, Quảng Tây đi xuống phía Nam từ khi nhà Tần thống nhất đại lục, lập ra một chính quyền trung ương dưới sự thống trị của nòi Hoa Hán (chỉ mấy trăm năm trước Công Nguyên). Tuy nhiên thuyết đó không giải thích được những điểm căn bản về sự xuất hiện của loài người đã sinh sống và đạt được một nền văn minh khá cao tại miền đất này cả chục ngàn năm, trước khi có người từ Phương bắc di cư tới. Thuyết này càng không thể hiểu được tại sao có sự xâm lấn ồ ạt của người phương Bắc đến một địa phương đã có người sinh sống trong một xã hội có tổ chức quy củ lại xẩy ra một cách êm thắm như vậy ? Ngay cả khi vua Thục chiếm Văn Lang của vua Hùng lập ra nhà nước Âu Lạc cũng tương đối êm thắm chưa kể vua Thục cũng được dân địa phương lập đền thờ như đã thờ vua Hùng. Lại nữa, khi nhà Hán đã xâm chiếm Giao Châu, chia thành quận huyện để cai trị cả mấy trăm năm, vậy mà khi Hai Bà Trưng nổi binh đánh Hán vào năm Canh Tý (năm 40 sau Công Nguyên), sử chép rằng : “Hô một tiếng mà các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Nam đều hưởng ứng. Việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay” (Lê Văn Hưu – Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư – trg 146). Dân ở Cửu Chân, Nhật Nam là dân ở vùng Bắc và Bắc Trung Việt ngày nay, chắc chắn là tổ tiên người Việt nổi lên hưởng ứng Hai Bà Trưng, lãnh tụ của mình là chuyện dĩ nhiên rồi. Nhưng còn dân Nam Hải, Hợp Phố và 65 thành thuộc Lĩnh Nam tức dân các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, đảo Hải Nam, có thể một phần các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến, cả Triết Giang nữa thuộc Trung Quốc ngày nay. Vậy họ là dân nào? Chả lẽ họ là dân Hán mà lại theo lãnh tụ người Việt nổi lên đánh đuổi quan quân nhà Hán giành độc lập cho người Việt sao ? Phải chăng người phương Bắc đó với người địa phương nay thuộc Bắc phần và Bắc Trung phần Việt Nam chẳng qua cũng cùng một đại tộc ? Và sự di cư từ miền Bắc về miền Nam do sự dồn ép của Hoa tộc một phần, nhưng trước đó là do sự nước biển đã lui dần trả lại các đồng bằng sông Hồng, sông Mã màu mỡ, là phần khác, phần chính, khiến luồng người từ miền Bắc di về miền Nam cũng chỉ là sự qui cố hương của giống người trước kia đã từ miền Nam bành trướng lên miền Bắc ?

– Thuyết thứ hai dựa vào những xương sọ, đúng hơn, vào tỷ lệ tộc người căn cứ vào các sọ này đã tìm được ở phần đất nay là Bắc và Bắc Trung phần Việt Nam. Tổng số xương sọ được dùng làm đối tượng nghiên cứu còn giữ lại được cho đến nay là 70 cái, chia làm hai bảng : Bảng thứ nhất gồm 38 sọ được coi là thuộc thời đại Ðồ Ðá Mới, phần lớn do các học giả người Pháp tìm ra (29/38) và cho rằng họ thuộc các chủng tộc Malanesian, Indonesian, Australoid hay Nam Á. Bảng thứ hai gồm 32 sọ, phần lớn, ngược lại, do các học giả Việt Nam tìm thấy (22/27) trong những năm gần đây sau khi Cộng sản cho lập Viện Khảo Cổ (từ 1960). Những sọ này được coi là thuộc thời đại Ðồng-Sắt nghĩa là vào khoảng 1000 năm trước Công Nguyên đến vài ba trăm năm sau Công Nguyên, đa số thuộc chủng tộc Mongoloid. Hai bảng xương sọ này đã là nguyên nhân sinh ra những giả thuyết về nguồn gốc người Việt khác với những giả thuyết dựa vào văn bản kể trên. Tuy nhiên kết luận của các tác giả này cũng có những khác biệt đáng kể : có người cho nguồn gốc người Việt như vậy là quá trình Mongoloid hóa các sắc dân Hắc chủng (Trần Quốc Vượng & Hà Văn Tấn – Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam – Hà Nội 1963). Có người cho đành là đã có sự Mongoloid hóa hình thành nguồn gốc người Việt nhưng sự da vàng hóa này không nhất thiết được hiểu là Hán hóa mà là Mường hóa, Tày Thái hóa (Phạm Huy Thông, KCH 1&2 – 1983). Có người đi xa hơn cho nguồn gốc dân tộc Việt Nam là sự hòa đồng của các dân có nguồn gốc bản địa (Nguyễn Ðình Khoa – Các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam – Hà Nội 1976). Riêng Nguyễn Khắc Ngữ, tuy không khác các tác giả trên bao nhiêu, nhưng ông hiểu Mongoloid là giống Mông Cổ (Mongol) ở phía Bắc nước Trung Hoa, nên kết luận của ông đương nhiên phải cho nguồn gốc người Việt trước hết là các giống Malanesian, Indonesian, Australoid từ các hải đảo Thái Bình Dương vào. Dần dần những sắc dân này bị Mongoloid hóa mà ông khẳng định là Hán hóa từ phương Bắc xuống, hình thành nên tổ tiên người Việt (trang 88, sđd).

Trước khi minh định cho thực rõ người Mongoloid từ đâu mà sinh ra ? (Ðiểm này sẽ được trình bày trong phần sau), ta cần xác định lại từ Mongoloid trong khảo cổ học không có nghĩa là người Mông Cổ của nước Mongol, cũng như Malanesian không có nghĩa là người Mã Lai, Indonesian không hẳn phải là người Nam Dương. Giản dị là khi có những tộc người này nhân loại chưa có quy chế quốc gia, tất nhiên cũng chưa có các nước Mongol, Indonesia, Malaysia … Gia dĩ, khởi thủy nhân loại chỉ coi như gồm ba đại tộc : Mongoloid là đại tộc da vàng ở Á Châu gồm hai loại : Bắc Mongoloid ở từ Ngoại Mông về phía Bắc và Nam Mongoloid ở toàn cõi đại lục Á Châu; Europoid, đại chủng da trắng ở Âu Châu; và Négro – Australoid, đại chủng da đen ở Phi Châu và các đảo Nam Thái Bình Dương.

Việc tìm thấy sọ loại Mongoloid thời Ðồ Ðồng có ít hơn thời Ðồ Ðá là do một lý do khác sẽ được làm sáng tỏ trong phần dưới đây chứ không phải vì lý do người Mongoloid đã từ phương Bắc di cư đến như trước kia đã hiểu. Hãy lấy một thí dụ : chỉ có một địa điểm Hang Nậm Tum thuộc tỉnh Sơn La vùng Tây Bắc, trong thời tiền sử người ta đã thấy có hai lớp người đến cư trú để lại nhiều công cụ, nhiều ngôi mộ, nhiều di tích khiến người ta biết được hai lớp người tại đây cách nhau khá xa : lớp đầu thuộc văn hóa Sơn Vi (Hòa Bình I, khoảng hơn 20.000 năm trước Công Nguyên), lớp sau thuộc hậu kỳ đá mới bắt đầu thời kỳ kim khí (khoảng từ 1000 năm trước Công Nguyên trở lại). Giữa hai lớp này có một khoảng cách chứng tỏ không có con người sinh sống tại đây đến mười mấy ngàn năm (Võ Quý, KCH 1&2 – 1990, trang 25).

Chỉ tiếc những xương cốt để lại toàn là những mảnh sọ, những răng nanh, xương cẳng tay, ngón tay không nguyên vẹn khiến người ta khó đoán biết chủ nhân hang động này trước kia thuộc chủng tộc nào?

Việc có hai lớp người cư ngụ tại Hang Nậm Tum thuộc hai thời kỳ khác nhau cách quãng nhiều ngàn năm tương ứng với thời kỳ biển tiến (giả thiết có sự di cư của đoàn người từ Nam lên Bắc), và biển lui (tương ứng với sự bành trướng của Hán tộc ở phương Bắc đưa đến việc di cư ngược lại của đoàn người từ Bắc xuống Nam) là giả thiết cần được suy nghĩ và nghiên cứu. Người viết sẽ trở lại vấn đề này ở phần dưới đây.

Hai giả thuyết kể trên, dù là thuyết dựa vào văn bản, hay thuyết dựa vào các xương sọ đào được mà người ta gọi là thuyết nhân chủng đều dựa vào một tiền đề căn bản. Ðó là : văn minh dân tộc Hoa Hán có trước tộc Việt; đất nước và con người Trung Hoa cũng đã có trước và từ khởi thủy đã không khác mấy với ngày nay (!).

Cái tiền đề này không biết tự bao giờ đã coi như là một chân lý bất biến mà hễ ai nói khác đi thì bị coi là dốt, là nói mò hay nói láo (!). Nay nếu cái “tiền đề” này được chứng minh là không đủ, không đúng, là sai sự thực, trái ngược cả sự thực thì tất cả những giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam kể trên, dù xây dựng trên thuyết dựa vào văn bản hay trên thuyết dựa vào sọ người cổ, đều là chuyện lâu đài xây trên bãi cát, đều trở thành sai vậy!

Việc chứng minh cái tiền đề này là không đúng, trái với sự thực chính là mục đích của người viết tham luận này.

Căn cứ vào kết quả của Hội nghị Berkeley 1978 nghiên cứu về nguồn gốc văn minh Trung Hoa, căn cứ vào những phát minh khoa học mới nhất về khảo cổ học, nhân chủng học, di truyền học (DNA), ngôn ngữ học, cả những sưu tầm về phong tục tập quán ở phần đất nay thuộc hai quốc gia khác nhau, người viết chứng minh được rằng : khảo cổ học, nhân chủng học, ngôn ngữ học, huyết thống di truyền học, cả về phong tục tập quán, đều chứng tỏ Ðại Tộc Bách Việt đã có trước, cũng đã cư ngụ tại phần đất nay là đất nước Trung Hoa, ít nhất từ phía nam sông Hoàng, trước Hán tộc. Và văn minh Bách Việt, căn bản là văn minh định cư trồng lúa nước, cũng đã có trước văn minh Hoa Hán, thuộc văn minh săn bắn và trồng lúa tắc, lúa khô. Tộc Hoa Hán khởi thủy lập quốc từ đời Thương, khoảng 1600 năm trước Công Nguyên, chỉ là một tộc ít người chiếm một vị trí nhỏ tương ứng với các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây và một phần Hoa Nam ngày nay, nhưng nhờ có tài thiện chiến, tâm lý thực dụng và văn minh vật chất, học được do tiếp xúc với văn minh Lưỡng Hà đã nhanh chóng bành trướng ra khắp đại lục và đã đồng hóa được đa số tộc Bách Việt, thâu hóa được văn minh của họ, hòa đồng với nhiều văn minh khác xây dựng nên một nước Trung Hoa vĩ đại và đa tạp như ngày nay.

Sự chứng minh này không phải để so bì hơn kém, càng không có ý chia rẽ chủng tộc mà chỉ muốn nói lên cái gốc tích thực sự, cái dòng dõi chân chính của dân tộc mình, đồng thời chuẩn bị tài liệu cho một hội nghị quốc tế về nguồn gốc văn minh Việt Nam có thể được triệu tập trong tương lai.

Ai trong chúng ta cũng biết, muốn tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt Nam, không thể không nói tới nguồn gốc con người. Phần viết dưới đây chủ yếu căn cứ vào những khám phá mới nhất của di truyền học DNA để tìm hiểu về nguồn gốc người Hoa và loài người nói chung, rồi từ đó suy ra nguồn gốc người Việt chúng ta.

KHÁM PHÁ MỚI VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI Á ÐÔNG QUA DI TRUYỀN HỌC CỦA NHÀ BÁC HỌC J.Y. CHU

Chỉ mới chưa đầy hai năm tính đến nay, một khám phá mới của nhà bác học J.Y. Chu cùng 13 đồng nghiệp khác tại các trường đại học và viện nghiên cứu lớn nhất ở Trung Hoa đã công bố một nghiên cứu thành công về Di truyền học DNA mang tên Genetic Relationship of Population in China, đăng trong Tạp chí Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia của Hoa Kỳ (The Nation Academy of Sciences – USA – Vol.95, issue 20, 1763-1768, 29 tháng 7, 1998).

Báo cáo này khẳng định nguồn gốc của người Trung Hoa, và nói chung, người Ðông Á là do giống người ở Ðông Nam Á di lên. Những người này có gốc gác từ Phi Châu đã di đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á từ nhiều năm trước. Riêng ở phía Bắc Trung Hoa ngày nay, những người này vào khoảng cả chục ngàn năm sau lại lai giống với người cũng từ Phi Châu di qua theo đợt sau nhưng đi theo ngả Âu Châu và Trung Á mà người ta đồ chừng nhiều lắm là khoảng 15.000 năm trở lại đây, sau đợt tan băng hà cuối cùng. Sự phát minh này đã được những nhà sinh học và nhân chủng học hàng đầu của nhân loại phụ họa và bổ túc (Cavalli – Sforza L. Alberto Piazza, 1998, Li Yin 1999) khiến nguồn gốc nhân loại Ðông Phương, trong đó có Trung Hoa và Việt Nam có thể coi như đã được khẳng định.

Xin Quí vị độc giả đọc trong số này bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Ðức Hiệp tường trình báo cáo khoa học của GS. Chu. Ở đây, chúng tôi chỉ xin Quí vị cùng chúng tôi lược qua lý thuyết về sự thay đổi cấu trúc di truyền DNA; rồi kiểm chứng lại phát minh của ông Chu bằng khảo cổ học và cổ nhân chủng học đã từng được công bố; từ đó có thể chiếu rọi vào các thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam ngõ hầu có thể chấm dứt mọi tranh cãi về vấn đề tối quan trọng có thể dùng làm căn bản cho mọi hoạt động văn hóa của chúng ta sau này.

VÀI NÉT VỀ THUYẾT THAY ÐỔI CẤU TRÚC DI TRUYỀN DNA

Các nhà khoa học đều đồng ý đây là thuyết quan trọng nhất có thể thay đổi bộ mặt nhân loại kể từ đầu thiên niên kỷ thứ ba này. Người ta đã nói đến thuyết này từ lâu nhưng việc chứng minh được về phương diện khoa học của thuyết này mới được thực hiện trong những ngày rất gần đây.

Xin hãy lấy ngày 22-2-2000, ngày mở đầu Hội nghị về Kỹ thuật Vi-Kính trong Sinh học (Optics Within Life Sciences) tổ chức ngay tại bãi biển Coogee, thành phố Sydney (Úc Ðại Lợi) làm khởi điểm thảo luận. Trong hội nghị này, nhà nữ bác học S. Kornilova, Trưởng đoàn nước Ukraine, trước kia thuộc Liên Bang Sô-viết, đã báo cáo về ảnh hưởng của phóng xạ nguyên tử đối với sinh vật tại Chernobyl nơi trước kia là địa điểm một lò nguyên tử của Nga đã bị dò làm phóng xạ thoát ra ngoài. Phóng xạ này khiến các nhiễm sắc thể vỡ ra nhiều mảnh vụn nhẹ cỡ 5.105 Dalta. Những mảnh vụn DNA này thường ở tình trạng thối rữa mang nhiều di tố 6-C gấp nhiều lần hơn bình thường, đồng thời các khoáng chất (sắt, đồng, măng gan, kẽm, chì …) lại tăng lên rất nhiều. Cái đáng sợ nhất là tình trạng này đã tăng lên theo tuổi tác các sinh vật (trong đó có người) đồng thời di truyền cho thế hệ sau với mức tăng trưởng cao hơn gấp bội. Các sinh vật nói chung và con người nói riêng mai hậu tại vùng này sẽ biến thể như thế nào còn là điều người ta phải theo dõi thêm mới khẳng định được! Phải chăng rồi sẽ có những loại người khổng lồ như khủng long hay dị dạng như người hành tinh ? (Tất nhiên theo giả tưởng của khoa học).

Ðiều quan trọng hơn nữa là người ta đã chứng minh được bằng khoa học chứ không phải chỉ bằng lý luận và linh cảm như trước kia, rằng ngoài phóng xạ nguyên tử, cấu trúc di truyền cũng có thể thay đổi theo luật tự nhiên mà trước kia được hình dung qua cụm từ đột biến di truyền. Sự đột biến di truyền này khoa học ngày nay gọi là SPONTANEOUS POINT OF MUTATION, có thể xẩy ra vì nhiều nguyên do mà 4 nguyên do sau đây cần được lưu ý :

1.- Ðột biến di truyền do độc chất đưa đến ung thư (carcinogens) như chất formaldehyde gây ra.

2.- Ðột biến di truyền vì nhiễm khuẩn.

3.- Ðột biến di truyền do tia cực tím của mặt trời.

4.- Ðột biến di truyền do sơ xuất của bộ máy tuần hoàn trong quá trình phân sinh tự tạo thường xảy ra ở hai vùng có di tố purine và pyridine. (GS. Võ Thanh Liêm, Ðại Học Monash, Báo Việt Luận, số 1460 ngày 11-3-2000).

Xin nói ngay, những hiểu biết trên, nhân loại cũng chỉ mới khám phá ra trong những năm gần đây. Muốn hiểu rõ hơn, đúng ra cần phải phân biệt khái niệm về di truyền với kỹ thuật di truyền (genetic engineering hay gene technology).

Về khái niệm di truyền, từ năm 1665 Robert Hooke là người đầu tiên đã dùng từ tế bào (cells) để diển tả cấu trúc của đối tượng ông quan sát dưới kính hiển vi thô sơ của ông. Năm 1943 cụm từ DNA (DEOXYRIBO NUCLEIC ACID) đã được dùng lần đầu để chứng minh có sự di truyền trong loài vi khuẩn, nhưng đến năm 1951 Rosalind Frannklin mới cung cấp được dữ kiện về sự cấu trúc của DNA. Khởi điểm của kỹ thuật di truyền có thể kể từ năm 1953 khi James Weston và Francis Crick mới đặt thành định đề cấu trúc di truyền DNA trong 23 cặp vòng xoắn nhiễm thể chromosomes – cấu trúc của con người hiện đại. Phải bước vào thập niên 80, kỹ thuật di truyền mới bắt đầu phát triển với kỹ nghệ sản xuất insulin (1980), với giải thưởng Nobel Hòa Bình trao cho Barbara Mc Clintock về công trình khảo cứu tính di động của genes, (1983) tiếp theo là nhiều thành tựu của thay đổi cấu trúc di truyền từng bước đạt được do tiến bộ của kỹ thuật di truyền thay DNA bằng cách chuyển đổi genes. Nhưng việc làm chủ được kỹ thuật di truyền đủ để con người có thể đoạt quyền tạo hóa trong việc tạo ra muôn loài, tăng khả năng phát hiện được nguồn gốc loài người, thì, như trên đã nói, nhân loại mới đạt được trong những năm rất gần đây mà thôi.

Một câu hỏi cần làm cho rõ nghĩa là : vậy kỹ thuật di truyền (genetic engineering) là gì ? Xin đọc định nghĩa sau đây của một cơ quan giáo dục và di truyền Úc : “Những tế bào của mọi động vật cũng như thực vật đều chứa yếu tố DNA, ví như một bảng thiết kế cho cuộc sống được lưu truyền từ đời nọ qua đời kia. DNA tạo nên gene và chính các genes đã mang tín hiệu làm cho muôn loài từ thực vật, động vật đến con người có được cái sắc thái đặc biệt như mắt xanh, da nâu … DNA có thể bị thay đổi bằng cách chuyển đổi các genes giữa muôn loài khác biệt nhau. Thí dụ : ta có thể cấy một gene từ loài cá sống ở biển Bắc Atlantic vào một cây dâu khiến cây dâu này có thể sống trong băng lạnh.

Thay đổi những genes đặc biệt với mục đích thay đổi một loại động vật hay thực vật nào đó theo phương cách đặc biệt thì được gọi là kỹ thuật di truyền vậy”

(“The cells of all plants and animals contain DNA; its like a blueprint for life, which is passed from generation to generation DNA is made up of genes, and its the genes that carry the information which make plants, animals and humans have specific charcteristics such as green eyes or brown skin … DNA can be changes by transferring genes between and within defferent living things – you might, for example, try putting a gene from a fish that lives in the vary cold seas of the North Atlanitc into a strawberry, so it can survive a frost.

Changing specific genes in order to change a plant or animal in a particular way is known as genetic engineering or genetic modification” – Choice Magazine, Feb. 1997, published by Australian Consumers Association)

Trong kỹ thuật di truyền niên đại đáng ghi nhớ là năm 1997 khi nhà bác học IAN WILMUT tại Viện Roslin Institute ở Tô Cách Lan đã chế ra “con cừu DOLLY” bằng phương pháp phân sinh tế bào (clone).

Rồi tháng 1 năm nay 2000, Ðại học Texas (USA) đã chế tạo thành công một cấu trúc DNA hoàn toàn nhân tạo.

Chính những khám phá kể trên đã phá vỡ được điểm bế tắc mà kể từ Darwin (The descent of Man – London 1874), ông tổ của thuyết TIẾN HÓA chỉ có thể lý luận được bằng lý thuyết chứ chưa chứng minh được bằng khoa học về câu hỏi : làm thế nào mà người vượn (Homo-Erectus) lại có thể biến thành người hiện đại (Homo-Sapiens) như chúng ta ngày nay ? Ðiểm này sẽ được trình bày trong những dòng sau khi ta bàn đến:

SƠ LƯỢC VỀ THUYẾT TIẾN HÓA VÀ NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI

Thuyết này chủ trương con người cũng như muôn loài trên trái đất đều từ một đơn bào phát sinh cách nay khoảng 1 tỷ rưỡi năm biến đổi sinh thành. Riêng ông tổ trực tiếp của loài người đều được các nhà nhân chủng cho là từ một giống người vượn đi thẳng bằng hai chân tên khoa học là Homo-Erectus biến hóa dần mà ra. Như ta đã biết (Ts TƯ TƯỞNG số 4 – Văn Hóa Ðông Sơn, trang 15) dấu vết người vượn hay còn gọi là Linh Trưởng cho đến nay tìm được, xưa nhất là ở Ðông Phi Châu. Người ta chia làm ba loại :

– cổ nhất thường được gọi là người Viễn Cổ (Proteo-anthropus) từ 1 triệu năm trở về trước (dấu chân người vượn homonid có thể cách đây đến 3 triệu rưỡi năm!).

– cổ thứ nhì thường được gọi là người Thái Cổ (Arche-anthropus) có từ 100.000 năm đến 1 triệu năm.

– cổ thứ ba được gọi là người Thượng Cổ (Paleo-anthropus) từ khoảng 40.000 năm đến hơn 100.000 năm trở về trước.

– sau hết là người Hiện Ðại (Neo-anthropus) là mẫu hình nhân loại ngày nay tên khoa học là Homo- Sapiens-Sapien xuất hiện cùng một loạt ở nhiều nơi mà khảo cổ tìm thấy xương cốt cách đây trên dưới 40.000 năm. Hai trung tâm tìm thấy người Hiện Ðại đầu tiên là Ðông Nam Á (Hang Nia) và Tây Á.

Một câu hỏi cần đặt ra là : có phải người Vượn Homo-Erectus từ hơn hai triệu năm trước đã tuần tự tiến hóa để trở thành người hiện đại như ngày nay không ?

Các nhà nhân chủng học hình như đã không có cùng một câu trả lời cho vấn đề này.

Người đồng ý với thuyết chủ trương từ người Vượn Phi Châu (Autralopithecus) đã chuyển thành người Hiện Ðại chỉ theo một tiến trình Sapiens hóa duy nhất là nhà sinh học nổi tiếng Weidenreich F. [On the Earliest representatives of modern mankind recovered on the soil of East Asia (Peking, Not.Hist. Bul. XIII, 1939) – A skill of Sinanthropus pekinensi (A comparative study on a primitive minid skill – Palacotologia Simica – No. 10, 1943) – The Kellor Skull : Anr. jown. of Physic Anthropology 3, 1, 1945]

Nhưng phần lớn những nhà nhân chủng khác đều cho rằng tiến trình này chỉ bắt đầu từ người Thượng Cổ (Paleo-Anthropus) mà bỏ đi hai loại Thái Cổ và Viễn Cổ, với lý do hai loại người Vượn quá xưa này có bộ óc quá nhỏ (dung tích não dưới 1000 cm3) không thể cùng một chủng loại với loài người được (não phải từ 1000 cm3 đến 2000 cm3) [Dobzhansky T. (Mankind Evolution – New Haven – London, Yale Uni. Press. 1962); Coon C.S. (The Origins of Races 1963)]. Nói một cách khác, ông tổ trực tiếp của người Hiện Ðại là người Thượng Cổ rõ hơn chỉ từ người Thượng Cổ (Paleo-anthropus) mà ra.

Ngay cả với loại người vượn Homo Erectus thượng cổ này (Paleo-Anthropus) không phải tất cả đều tiến hóa thành người Hiện Ðại. Có những loại như người Neanderthal rất phổ thông ở Âu Châu (đến nay tìm thấy được hàng trăm di tích có xương cốt loại người này) đã phát triển cách đây 150.000 năm rồi bỗng tự tiêu diệt cách đây khoảng 50.000 năm, như nhiều loài động vật khác thời đó. Giống người này có bộ óc khá phát triển (1550 cm3 so với người hiện đại bộ não trung bình là 1400 cm3). (Boule M & Vallois H. – Les hommes sossiles – Paris 1952) và như vậy người Neanderthal không phải là tổ tiên của người Châu Âu ngày nay. Di truyền học DNA xác nhận kết luận của khảo cổ học kể trên là đúng. (Krings M. & al Neanderthal DNA Sequences and the Origins of modern humans – Cell. Vol. 90. pp. 7719-7724, 1997).

Xem chừng chỉ có một loài linh trưởng qua được cái cầu thay đổi cấu trúc di truyền mà trước kia được gọi là đột biến di truyền và bước nhẩy biện chứng. Muốn hiểu tại sao thì trước hết ta phải trả lời được hai câu hỏi căn bản nữa là :

1 – cấu trúc di truyền của người vượn và người hiện đại khác nhau như thế nào ?

2 – Nếu loài người đã sinh ra từ một nguồn duy nhất mà nhân chủng học ngày nay thường gọi là từ một “bà Mẹ Phi Châu”, thì tại sao con người lại kẻ da trắng tóc hoe như người Âu Châu ? Kẻ da vàng tóc đen như người Á Châu ? Kẻ da đen tóc xoắn như đa số người Phi Châu và Hải đảo Thái Bình Dương ?

Về câu hỏi thứ nhất:

Người ta biết được rằng con người hiện đại như chúng ta ngày nay có 23 cặp vòng xoắn nhiễm thể (chromosomes) trong khi người vượn có những 24 cặp, trong đó chỉ có 5 cặp là giống người hiện đại. Do đó, trước kia, bằng lý luận và bằng linh cảm các nhà nhân chủng học đã đoán biết được người vượn đã tiến hóa để trở thành người hiện đại phải vượt được cái cầu thay đổi cấu trúc di truyền. Nhưng thời đó khoa di truyền học chưa tiến bộ nên người ta chỉ có thể lý luận có tính cách triết học là sự thay đổi này phải có nhờ bước nhẩy biện chứng : Các học giả thời ấy giả thiết khi những biến chuyển nhỏ về lượng tích lũy đến một mức nào đó có thể gây những biến đổi về chất. Trả lời như vậy là chưa thỏa đáng, không thể làm vừa ý những người đắm mình trong tinh thần khoa học, thường được mệnh danh là khoa học chính xác trước đây.

Ngày nay nhờ tiến bộ của khoa di truyền như trên đã nói, người ta hiểu, ngoài thay đổi vì phóng xạ, có thể có thay đổi cấu trúc di truyền DNA theo luật tự nhiên vì những nguyên do khoa học, như trên đã trình bày.

Vậy thì, trong các loại người vượn, đã có một loại, ở Phi Châu, hội đủ được những yếu tố khoa học để thay đổi được cấu trúc di truyền của luật Spontaneous Point of Mutation này, chuyển được DNA (translocation) của loài Homo-Erectus thành DNA của loài Homo-Sapiens mà thành người hiện đại. Việc này xẩy ra chỉ mới khoảng 100.000 năm cách ngày nay (tối đa là 200.000 năm). Vậy di truyền học DNA đã chứng minh thuyết các nhà nhân chủng học chủ trương chỉ riêng người vượn Thượng Cổ (Paleo-Anthropus) đã chuyển hóa thành người Hiện Ðại là đúng.

Về câu hỏi thứ hai:

Con người Homo-Erectus từ Phi Châu dần dà đã phân bố đi các nơi theo nhiều đợt qua nhiều giai đoạn khác nhau : đợt qua Á Châu trở thành người da vàng tên khoa học là Mongoloid, đợt qua Âu Châu trở thành người da trắng Europoid và đợt xuống Nam Phi Châu và qua hải đảo trở thành người Negro-Australoid. Những người này có vóc dáng mầu da, ánh mắt, râu tóc … khác nhau. Tại sao ?

Trước kia, câu trả lời của các nhà nhân chủng học là : vì ảnh hưởng của môi trường sinh sống (môi sinh). Ðiều này có thể hiểu theo hai nghĩa :

– nghĩa thứ nhất : môi sinh được coi là yếu tố ngoại tại,

– nghĩa thứ hai : môi sinh khi thâm nhập vào cơ thể con người dần dần đã biến thành yếu tố nội tại của con người đó.

Theo nghĩa thứ nhất : con người được dinh dưỡng tốt, có khí hậu tốt thì có thể cao lên, to ra; sống tại nới quá nóng hay quá nhiều ánh sáng mặt trời thì da có thể đen hơn; sống ở nơi môi sinh khác hẳn như người Mongoloid qua eo Bering sang Mỹ Châu, da đỏ hơn, to lớn hơn … Nhưng sự thay đổi hình dáng vì môi sinh như vậy cũng chỉ có thể đến một chừng mực nào đó. Không thể cùng một nguồn gốc hay cùng một mẹ mà kẻ da trắng mũi lõ, người da vàng mũi tẹt, người lại da đen tóc xoăn quắn. Dùng môi sinh theo nghĩa này để giải thích hiện tượng con người cùng một gốc mà vì ảnh hưởng của môi sinh đã biến thành người da trắng (Europoid) ở Âu Châu, da vàng (Mongoloid) ở Á Châu hay da đen (Negro-Australoid) ở Hải Ðảo Thái Bình Dương và các vùng khác ở Phi Châu thì có vẻ không ổn vì không đúng với khoa học và thực tế.

Nhưng nếu hiểu theo nghĩa thứ hai, vấn đề lại khác : môi trường đặc biệt có thể đưa vào cơ thể con người những yếu tố đặc biệt (như các vi khuẩn, tia cực tím do ánh sáng mặt trời, các chất độc, các khoáng sản đặc biệt … ) khiến con người khi hội đủ yếu tố có thể có sự đột biến di truyền tự nhiên mà khoa học ngày nay gọi là spontaneous point of mutation. Trong trường hợp đó nhiễm sắc thể DNA trong gene sẽ làm con người thay đổi đi về hình dáng, màu da, râu tóc, sức khỏe, tật bệnh, cả về thông minh và có thể về tác phong thiên hướng của con người như nghiện rượu, đa sát … nữa. Cái nhiễm sắc thể DNA này, một khi đã lập thành sẽ tồn tại vĩnh viễn trong con người và di truyền mãi mãi cho các thế hệ về sau.

“Genes contain the information necessary for our bodies to grow, develop and formation. Genes are made of the chemical DNA (Deoxyribosenucleic acid) which is the basic material of heridity. Genes provide the information for the cells in the form of a chemically codes “message”, knows as the genetic code”. (Fact Sheet No14 – NSW Genetic Educ. prog.)

và :

” – all yours DNA is in nearly every cell in your body.

– it influences things that make up personal identify ; height, build, shin colour, intelligence and possibly propensity for some behaviours such as alcholism.

– your genetic make up stays with you all your life it cannot be changed” (Information paper No 5 – Sept 1996 – Privacy Commissioner Human Rights Australia)

Chính vì sự bất lực của khoa học trước kia không giải thích nổi các hiện tượng như cách giải thích của di truyền học DNA vừa kể trên nên thuyết tiến hóa từ một trung tâm duy nhất không đủ sức thuyết phục, nên nhiều tác giả, kể cả người viết những dòng này trước kia, đã phải tạm quay ra thuyết nhiều trung tâm, dựa vào thuyết Tiến hóa Ðộc lập Ða địa phương (Multiregional Evolution) để giải thích về sự xuất hiện của người hiện đại. Xin đừng vội dùng thuyết lai giống để giải thích hiện tượng này vì khởi thủy đã có giống da trắng, da vàng, da đen khác nhau đâu mà lai.

Tóm lại : tuy trước kia đã có rất nhiều lý thuyết có sức thuyết phục cao, nhưng trước khi có sự khám phá về thay đổi cấu trúc di truyền DNA mà, như trên đã nói, mới chỉ phát minh ít năm gần đây, mọi cuộc bàn cãi về nguồn gốc con người nói chung, về nguồn gốc một chủng tộc nào đó như chủng tộc Hoa, chủng tộc Việt nói riêng, chỉ có giá trị thuần lý thuyết.

Trong những bài viết trước đây, chúng tôi đã chứng minh bằng những chứng tích do khảo cổ học cung cấp, là con người đã từ phương Nam (Văn Hóa Hòa Bình) di lên phương Bắc và là căn cốt thành lập nên nước Trung Hoa, kể cả các nước Nhật Bản, Triều Tiên. Tuy nhiên, lúc đó chưa có được các bằng chứng về di truyền học nên người viết còn bi lấn cấn về bảng xương sọ có tính Hắc chủng mà các học giả Pháp gọi là người Malanesian, Indonesian, Nam Á, Australoid, và được tất cả các tác giả người Việt gần đây tuân theo như một chứng tích đầy quyền uy của khoa học. Tất cả những lấn cấn này, nay nhờ di truyền học đã được sáng tỏ. Và chúng ta thấy đã đến lúc cần phải duyệt xét lại tất cả các thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam từ trước đến nay cho phù hợp với tiến triển của khoa học ngày nay.

ÐÓNG GÓP CỦA GS. CHU & ÐỒNG NGHIỆP VÀO NGUỒN GỐC NGƯỜI ÐÔNG Á QUA THUYẾT DI TRUYỀN

Như trên đã nói, xin Quý vị độc giả đọc chi tiết về báo cáo khoa học của GS. Chu và các đồng nghiệp trong số này. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh vào ba điểm căn cốt như sau :

Ðiểm thứ nhất :

Công trình khảo cứu của GS.Chu phủ nhận người Trung Hoa đã tự sinh ra và phát triển độc lập trên đất Trung Hoa như nhiều nhà khảo cổ trước đây đã chủ trương đồng thời khẳng định gốc gác của người Trung Hoa từ Ðông Nam Á di lên.

[Trích Báo cáo GS. Chu :

“Nervetheless, genetic evidence does not support an independence origin of Homo-Sapiens in China. The phylogeny also suggested that it is more likely that ancestor of the populations currently residing in East China entered from Southeast Asia”].

Ðiểm thứ hai :

Người từ Ðông Nam Á di lên đó cũng không hẳn tự phát sinh ở Ðông Nam Á mà họ đã đến từ Phi Châu qua ngả Nam Á.

[Trích Báo cáo GS. Chu :

“In both phylogenies with different loci and populations from East Asia always derived from a single lineage, indicating the single origin of those populations … It is now propably safe to conclude that modern humans originating in Africa constitute the majority of the current gene pool in East Asia”].

Ðiểm thứ ba :

Và, sau khi phối kiểm với kết quả của khảo cổ học như việc đo đạc xương cốt sọ mặt … GS. Chu kết luận riêng người phương Bắc Trung Hoa sau khi đã từ Ðông Nam Á di lên sau lại lai giống với người từ Trung Á và Âu Châu di cư đến. (Có lẽ đây là tổ tiên của người Hoa Hán lập nên nhà Thương – Người viết ghi thêm).

[Trích Báo cáo GS. Chu :

“The northern populations were under strong genetic influences from ALTAIC populaitons from the North. But it is unclear how Altaic populations migrated to Northeast Asia. It is possible that ancestral Altaic pop. arrived there from middle Asia, or alternatively they may have originated from East Asia”.

và :

“Therefore, it is likely that ancestors of Altaic speaking people originated from an East Asia population that was originally derived from South Asia, although the current Altaic-speaking populations undeniably admixed with later arrivers from mid-Asia and Europe”].

Như thế là đủ rõ.

Trong những bài viết trước, chúng tôi đã chứng minh người thuộc Văn hóa Hòa Bình Từ Ðông Nam Á mà điểm chính có thể từ Bắc Việt Nam đã di cư lên góp phần thành lập nước Trung Hoa. (TƯ TƯỞNG số 2 – Nguồn gốc dân tộc Việt Nam; số 3 – Biển tiến và Sự thuần hóa cây lúa nước; số 4 – Văn hóa Ðông Sơn). Nay thì di truyền học đã chứng minh không phải người Ðông Nam Á chỉ góp phần mà thực ra đã đóng vai trò chính, đã là tuyệt đại bộ phận của nhân chủng lập nên nước Trung Hoa. Ngay cả những người ở phía Bắc Trung Hoa cũng chỉ là người lai giữa giống từ Ðông Nam Á di lên với giống từ phương Tây (ngưới Âu?) di lại. Và việc đó cũng chỉ diễn ra nhiều lắm từ 15.000 năm trở lại đây mà thôi.

Sự khám phá của Gs. Chu và các đồng nghiệp đã được các học giả khắp nơi hưởng ứng. Nhiều học giả đã bổ khuyết thuyết của Ông Chu bằng những tham luận giá trị. Xin kể ra đây ba khuynh hướng đáng lưu ý nhất :

Khuynh hướng 1 : Trước hết, phải kể đến nhà di truyền học rất nổi danh vì đã đóng góp cho nhân loại nhiều công trình nghiên cứu giá trị là GS. Cavalli-Sforza. Ông đã chứng minh từ năm 1997 trước khi có sự công bố công trình nghiên cứu của GS. Chu là người từ Châu Phi đã đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á, rồi từ Ðông Nam Á họ đã chia hai ngả : một ra các hải đảo thuộc Châu Ðại Dương để trở thành những người mà sau này các nhà nhân chủng học gọi bằng nhiều tên như Malanesian, Indonesian, Australoid; và một ngược phía bắc lên Ðông Á rồi vượt eo Bering sang Mỹ Châu. (Cavalli-Sforza – genes, people & languages – Proc. Natl. Acad. Sci. – USA, Vol. 194 pp. 7719-7724, 1997). Câu hỏi cần được đặt ra là : Tại sao cũng từ Ðông Nam Á ra đi mà người ra hải dảo thì da sậm, tóc xoăn; trong khi người ngược phía Bắc lại thuộc da vàng, tóc đen? Cần phải có sự nghiên cứu về di truyền học và có thêm tài liệu khảo cổ để trả lời câu hỏi này cho xác đáng. Trong hoàn cảnh tài liệu hiện có, chỉ có thể giả thiết, người từ Phi Châu đến Ðông Nam Á rồi tiện đường (lúc này nước biển thấp nên có nhiều cầu nổi nối liền Ðông Nam Á đến hải đảo) ra hải đảo Thái Bình Dương trước. Trong khi trụ lại Ðông Nam Á, họ đã hội đủ các yếu tố khoa học để có được một sự thay đổi cấu trúc di truyền lần hai, biến từ giống da đen sang giống da vàng trước khi họ tiến lên phía Bắc. (Xin đọc lại đoạn trên về sự thay đổi di truyền DNA là nguyên nhân thay đổi vóc dáng, mầu da, mầu mắt, mầu tóc …). Vậy phải chăng người Hắc chủng từ Phi Châu đến Ðông Nam Á rồi nhờ hội đủ yếu tố khoa học, đủ cơ duyên, đã biến đổi thành người da vàng mà sau này nhân chủng học gọi bằng tên Mongoloid. Từ đó họ đã tỏa lên phía bắc vượt sang Châu Mỹ tạo thành người Da Ðỏ. Một nhánh khác của Hắc chủng khi đến Âu Châu đợt sau đã nhờ thay đổi cấu trúc di truyền DNA mà thành Bạch chủng, sau này gọi là Europoid. Ðại chủng Vàng Mongoloid ở Á Châu, và Ðen Negro-Australoid ở Phi Châu và các hải đảo Thái Bình Dương, và Trắng (Europoid) ở Âu Châu nay lan sang nhiều nơi khác như Bắc Mỹ, Úc Châu … là ba đại chủng chính của nhân loại ngày nay.

Khuynh hướng 2 : Ðến năm 1999, một học giả khác người Trung Hoa, GS. Li Yin, đứng đầu một nhóm khoa học gia về di truyền học (Ðại học Stanford) đã nghiên cứu cùng một vấn đề trên. Báo cáo của ông củng cố thuyết của ông Cavalli-Sforza mà còn chi tiết thêm thuyết con người có gốc duy nhất từ Phi Châu đã di cư đi các nơi khác qua ba đợt như sau :

Ðợt 1 : Từ Phi Châu đến Nam Á rồi xuống Châu Ðại Dương.

Ðợt 2 : Từ Phi Châu đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á; rồi từ Ðông Nam Á chia hai ngả, một đến các hải đảo Thái Bình Dương, một ngược lên phía bắc đến Ðông Á và Bắc Mỹ.

Ðợt 3 : Từ Phi Châu đến Tây và Trung Á rồi từ đó chia hai : một nhóm đi lên Âu Châu rồi qua Bắc Mỹ; một nhóm đi qua Nam Á và vào Bán đảo Ấn Ðộ. Kết quả về di truyền của GS. LiYin về sự di cư của người Phi Châu thực ra cũng không khác nhiều với thuyết di cư do các nhà nhân chủng học mà tiêu biểu là Charles Higham đã vẽ ra bản đồ từ năm 1996 (Li Yin & N. – Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region-distinguishes multiple prehistoric human migrations – Proc. of Natl. Acad. Sci. – USA, Vol. 96 pp. 3796-3800, 1999).

Khuynh hướng 3 : Một tác giả nổi tiếng khác ủng hộ và làm sáng tỏ thêm kết quả nghiên cứu của GS. Chu là GS. Alberto Piazza ở Ðại học Torino, Ý Ðại Lợi, ông nhắc lại ba mô hình được các học giả trước đây đưa ra về nguồn gốc người Trung Hoa là :

Mô hình 1 : Chủ trương nguồn gốc người Trung Hoa ở Hoa Nam là từ Hoa Bắc di xuống rồi hợp chủng với những người Australoid đã có sẵn ở đó.

Mô hình 2 : Chủ trương ngược lại cho người Hoa Nam đã di cư lên Bắc và người phía Bắc Trung Hoa chỉ là hậu duệ của người Phương Nam di cư lên.

Mô hình 3 : Chủ trương hai giống người ở Hoa Bắc và Hoa Nam tiến hóa và phát triển độc lập với nhau qua ba trung tâm chính Yang-Shao, Ching Lien Khang và Ta-Pen-Keng.

Ông kết luận : mô hình thứ hai (Bắc là hậu duệ của Nam Trung Hoa), người phương Bắc có sau và do từ người phương Nam di cư lên sinh ra, phù hợp với các dự kiện về di truyền học theo khảo cứu của GS. Chu và đồng nghiệp hơn. Những sự nghiên cứu khác dù về di truyền (Cavalli-Sforza), hay về khảo cổ như nghiên cứu về răng (Turnen C. G.); về sọ ( Hanihara T.) của người cổ ở Trung Hoa cũng hậu thuẫn cho mô hình hai này. (Alberto-Piazza – Human Evolution : Towards a genetic history of China – Proc. of Natl. Acad. Sci. – USA, Vol 395, No 6707, 1998).

Trước khi kết luận bài viết này, chúng tôi có ý định lược duyệt các thuyết đã có về Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam và trình bày những ưu khuyết điểm của chúng trước khi đưa ra kết luận chung cuộc cho vấn đề. Nhưng viết đến đây tôi thấy việc làm này cũng không cần thiết nữa. Chung qui thì những thuyết về nguồn gốc dân tộc ta từ trước đến nay, dù do người ngoại quốc viết, dù do người Việt Nam viết cũng chỉ qui về hai mô hình như đã trình bày ở phần mở bài : mô hình 1 căn cứ vào văn bản chủ trương người Việt là hậu duệ của những người từ phương Bắc di cư xuống; mô hình 2 căn cứ vào bảng tỷ lệ xương sọ thời Ðồ Ðá Mới do người Pháp thành lập trước kia và mới được bổ túc vào thập niên 60, chủ trương người Việt là hậu duệ những người thuộc Hắc Chủng từ Hải đảo Thái Bình Dương di vào sau phối hợp với những người Mongoloid từ phương Bắc di cư xuống mà thành. Tất cả những khảo cứu về di truyền học DNA , như vừa trình bày ở trên, đều khẳng định cả hai mô hình trên là sai, là ngược lại với sự thực. Người viết, bằng vào những kết quả mới nhất của khảo cổ học về thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng, về sự thuần hóa lúa nước … cũng đã chứng minh những thuyết ấy là sai sự thực (Tập San TƯ TƯỞNG số 1, 2, 3 và 4). Những chứng minh này hổ trợ cho các kết luận về di truyền học như vừa kể. Chúng tôi sẽ trình bày các sưu khảo khác về đồ gốm, về ngôn ngữ, văn tự, về các phong tục tập quán, nói chung về văn hóa, tất cả đều chứng minh tộc Bách Việt đã có trước và di cư lên phía Bắc để lập ra nhiều nước khác nhau trước khi thống nhất dưới bạo lực của nhà Tần thành nước Trung Hoa như ngày nay. Văn hóa Việt cũng đã có trước rồi sau này tiến hóa thành văn hóa Hoa ăn khớp nhịp nhàng với kết luận của các khảo cứu về di truyền học vừa được công bố trong vài năm gần đây.

Thuyết của GS. Nguyễn Khắc Ngữ cũng như các GS. Ðại Học Hà Nội về người Hắc chủng ở hải đảo vào lai giống với người Mongoloid là tổ tiên của người Việt ngày nay và thuyết của các học giả Pháp và các học giả người Việt lớp cũ từ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư đến Ðào Duy Anh, Trần Trọng Kim … nói về nguồn gốc người Việt là hậu duệ của người từ phương Bắc xuống phải được đảo ngược lại mới đúng với sự thực.

Người viết xin kết luận bài này với lòng mong ước những nhà di truyền học Việt Nam, trước hết xin bổ khuyết cho phần viết của chúng tôi liên quan đến di truyền học DNA trong những dòng viết ở trên để những tài liệu này được hoàn chỉnh hơn. Thứ nữa, nếu có thể được, xin sớm thực hiện một cuộc khảo cứu về di truyền học DNA cho người Việt Nam, như trường hợp GS. Chu và đồng nghiệp của ông vừa thực hiện đối với người Trung Hoa ngỏ hầu có thể khẳng định và làm rõ rệt thêm rằng người Hòa Bình, đã di cư từ Châu Phi đến, nhưng đã trụ ở Ðông Nam Á và nhờ đó đã có một sự chuyển hóa di truyền lần thứ hai tại đây nhờ những thay đổi về DNA trong nhiễm sắc thể khiến từ người da đen gốc Châu Phi dã chuyển hóa thành da vàng Châu Á trước khi di cư lên phía Bắc. Nhờ vậy Ðông Nam Á (trong đó có Việt Nam) trở thành cái nôi người da vàng cổ nhất của nhân loại tại phần đất không những ở Ðông Nam Á mà ở cả toàn cõi Châu Á vậy.

(Viết tại Sydney, Nam Bán Cầu, nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
10 tháng Ba năm Canh Thìn, 14/4/2000)

Nguồn: Tập san Tư Tưởng (Australia), số 7