Chuyến Nam du của tên xâm lược
Tập Cận Bình. Nguồn: internet
Tờ The Wall Street Journal hôm 22-09 có đăng bài phỏng vấn Tập Cận Bình khi đang ở Mỹ. Đề cập đến Biển Đông, kẻ đứng đầu cộng đảng và chính phủ Tàu thản nhiên tuyên bố nước y có chủ quyền tại khu vực đó kể từ thời cổ đại! Tiếp đến, trả lời phỏng vấn hãng thông tấn Reuters trước chuyến công du Anh Quốc (từ 19-10), Tập lại ngoác miệng khẳng định: “Các đảo và bãi đá ở biển Nam Trung Hoa là thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ lâu đời do tổ tiên người TQ để lại. Nhân dân TQ sẽ không cho phép bất kỳ một ai vi phạm chủ quyền và quyền lợi của mình trong vùng biển này. Hành động của TQ tại vùng biển Nam Trung Hoa là chính đáng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ”. Y nói thế hiển nhiên là để chống đỡ việc Tàu cộng liên tục bị tố quân sự hóa các đảo nhân tạo thuộc khu vực đang tranh chấp -đúng ra là cướp của VN- ở Trường Sa, với mục đích biến Biển Đông thành của riêng mình và tước đoạt quyền tự do lưu thông tại đó. Nên Bắc Kinh đã tỏ ra hết sức phẫn nộ khi khu trục hạm USS Lassen của Hải quân Mỹ đến gần bãi Xu Bi và Vành Khăn hôm 27-10. Chính trong bối cảnh đó mà Tập Cận Bình đến Hà Nội ngày 5-6 tháng 11 rồi cùng với vợ y, Bành Lệ Viện, kẻ từng hát động viên quân Tàu trong các trận đánh chiếm VN năm 1979 và 1984, theo lời mời của Việt cộng. Chuyến đi này đã gây ra nhiều thái độ khác nhau tại VN cũng như sẽ dẫn tới nhiều hậu quả cho con Hồng cháu Lạc. Hãy thử điểm lại các thái độ nầy. Trước hết là thái độ của đảng Việt cộng. Với khuôn mặt rạng ngời, đậm nét xu nịnh, bộ sậu lãnh đạo Ba Đình đã đón tiếp đại ca và đại đồng chí của mình hết sức long trọng: rắc hoa, trải thảm đỏ, bắn đại bác, giăng cờ xí, mở quốc tiệc… trong lúc những lời tuyên bố lếu láo của y tại Mỹ và Anh còn văng vẳng và ánh sáng hai ngọn hải đăng y vừa cho xây trên các hòn đảo ăn cướp hàng đêm vẫn quét trên vùng biển nước Việt. Bất chấp những gì Tàu cộng đã gây ra cho Dân tộc trong quá khứ (tài trợ “cuộc chiến chống Mỹ” để mở rộng đế quốc đỏ với xương máu dân Việt), hiện tại (xâm lấn biển đảo và xâm nhập đất nước mọi mặt: chính trị, kinh tế, thương mại, công nghiệp, văn hóa, lãnh thổ), tương lai (biến nước Việt thành thuộc quốc của nước Tàu theo Thành Đô mật ước), lãnh đạo Hà Nội vẫn hứa cùng lãnh đạo Bắc Kinh “củng cố tin cậy chính trị; tăng cường hợp tác trên các kênh Đảng, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc..; thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại, đầu tư phát triển…; mở rộng hợp tác về khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa, du lịch…” (Hội đàm giữa 2 Tổng bí thư). Chưa hết, đối với Biển Đông, Tổng Lú còn thề thốt “duy trì nguyên trạng (nghĩa là chấp nhận những gì Tàu Cộng đã làm từ 1974 đến nay), không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, gây căng thẳng tình hình” (mặc đại ca tiếp tục làm cho tình hình thêm căng thẳng và phức tạp). Nhưng quan trọng nhất là Việt cộng đoan hứa “thực hiện tốt kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng… giao lưu giữa các tổ chức Đảng ở Trung ương và địa phương…; thực hiện tốt kế hoạch đào tạo cán bộ hai Đảng giai đoạn 2016-2020” (Tuyên bố chung). Ôi thôi rồi! Trong hiện trạng độc tài độc đảng, như thế là để cho thằng Tàu tiếp tục điều khiển VN qua bộ máy lãnh đạo, kiểm soát VN bằng con đường nhân sự là con đường nhanh chóng nhất và hiệu quả nhất, ngõ hầu duy trì thể chế toàn trị CS ở đất nước ta và tình trạng “thuộc Trung” đầy tai hại. Đang khi đó thì tại Miến Điện những ngày gần đây, đảng cầm quyền quân phiệt (Đoàn kết Thống nhất và Phát triển) đã tuyên bố thua cuộc trước Liên minh Quốc gia vì Dân chủ của lãnh đạo đối lập Aung San Suu Kyi trong cuộc bầu cử Quốc hội hôm 8-11. Các tướng lãnh từng nắm quyền mấy chục năm qua nay đã biết đặt quyền lợi đất nước trên quyền lợi đảng, chấp nhận thực hiện dân chủ và qua đó cũng thoát Trung một cách đáng khâm phục. Ba Đình có học được bài học ấy chăng? Chẳng lẽ vì là nhược tiểu, có định mệnh sống cạnh đại cường y như Miến Điện, VN phải trở thành chư hầu của Đại Hán? Ý chí ngàn năm của Dân tộc chẳng chứng minh ngược lại sao? Tiếp đến là thái độ của cái gọi là Quốc hội. Thực thể gia nô nàyđã để cho Tập Cận Bình đọc diễn văn như y yêu cầu trước 500 đảng biểu. Một diễn văn đầy ngôn từ sáo rỗng, với giọng điệu ru ngủ, mang tính cách tuyên truyền, nhằm mục đích hăm dọa và theo lập trường bành trướng: nào chung chế độ CS, chung con đường XHCN, nào niềm tin và lý tưởng tương đồng, tương lai và vận mệnh tương quan, nào bỏ qua quá khứ, hướng tới mai hậu, trọng đại cục, gác tiểu tiết, nào cùng giải quyết tốt các bất đồng, chân thành thảo luận kiểu song phương, nào nhớ Trung Quốc có gene “hòa”, cùng Trung Quốc giữ chữ “tín”, nào không được để các thế lực thù địch cản trở sự hợp tác giữa hai quốc gia, đánh đổ bức tường bảo vệ hai chế độ… Y như chẳng biết (và đám tôi tớ của đảng lúc ấy cũng cố quên) cuộc chiến tranh biên giới với 20 vạn đồng bào ta bị sát hại, việc quân dân Tàu trên Biển Đông cướp bóc, bắt tù, giết hại ngư dân ta, đoạt lấy nguồn khoáng hải sản của ta. Y lại càng không nói tới việc xâm chiếm Hoàng Trường Sa của ta để làm những căn cứ, đồn bót hầu thôn tính Biển Đông trọn vẹn và việc đạo quân trá hình của y đang tung hoành đất Việt như chỗ không người (mới đây Hà Nội còn nới lỏng quy định cấp visa cho dân Tàu cộng). Vì đối với y, đấy chỉ là tiểu cục. Đang lúc việc mất đảo, mất biển, mất tài nguyên, mất nguồn sống đó mới là đại cục của Dân tộc! Rõ ràng toàn diễn văn là một “cây gậy” bên cạnh “củ cà rốt” một tỷ nhân dân tệ viện trợ và hàng trăm triệu đôla cho vay để đấm mõm và mua lòng tập đoàn lãnh đạo Hà Nội vốn chỉ biết có tiền. Tất cả cho thấy Tàu sẽ chẳng bao giờ chấp nhận việc VN thoát vòng ảnh hưởng của nó, nhất là trong hoàn cảnh nền kinh tế tài chánh VN đang lâm nguy (ngân quỹ quốc gia chỉ còn có 2 tỷ đô Mỹ mà nợ công lại đến 90 tỷ), có thể coi TQ như chiếc phao cứu nạn, để sẽ trở thành chủ ông khốn nạn. Điều mỉa mai là Tập Cận Bình đã phát biểu trong hội trường mang tên Diên Hồng, cái tên lịch sử toát lên tinh thần quyết tử Sát Thát, kiên cường thoát Trung của Đại Việt. Thế nhưng, trước hậu duệ của giặc Hồ này, mọi bộ mặt mang danh nghĩa “bô lão” và tự nhận “đại diện toàn dân” đã hành xử như một đám nhi đồng, lắng tai câm miệng, sau đó đồng loạt đứng lên vỗ tay. Đúng là thái độ nhận giặc làm thân nhân, nhận kẻ thù làm bạn hữu. Đức Trần Thánh Tông từ nơi chín suối hẳn đã phải đấm ngực kêu trời: “Đồ tặc tử!”. Lúc ấy sao không bỏ đi ra? Nay sao không lên tiếng phê phán diễn văn của tên xâm lược? Chẳng sợ ghi bia miệng ngàn năm à? Thứ ba là thái độ của Chính phủ. Từ lâu có dư luận cho rằng kẻ đứng đầu định chế này theo lập trường thân Âu Mỹ. Thế nhưng Nguyễn Tấn Dũng đã hồ hởi ký vào Tuyên bố chung 11 điểm ngày 06-11-2015. Phải chăng vì quá sung sướng trước lời mời viếng thăm của Tập, một lời mời hàm ý chuẩn nhận cho Dũng làm tổng bí thư? Chẳng hề hỏi ý nhân dân, Tuyên bố này trước hết nhắc lại tinh thần “16 chữ vàng và 4 tốt”, vòng kim cô siết đầu, ách nặng nề tròng cổ, rồi khẳng định “nắm vững phương hướng đúng đắn của tình hữu nghị Việt-Trung, tăng cường trao đổi chiến lược, củng cố tin cậy chính trị… thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung-Việt”. Cụ thể trên các lĩnh vực: (1) hợp tác giữa hai đảng để cùng đào tạo cán bộ; hợp tác giữa hai Quốc hội, hai Mặt trận, ngõ hầu cả 3 định chế này tiếp tục đè đầu đè cổ nhân dân đôi nước; (2) hợp tác giữa hai bộ ngoại giao, tham vấn ngoại giao thường niên, bồi dưỡng chung nhân viên hai bộ, ngõ hầu chung lập trường, chung phe cánh trước các vấn đề quốc tế; (3) hợp tác giữa hai quân đội trong việc đào tạo cán bộ, nghiên cứu học thuật, tuần tra chung vịnh Bắc Bộ (nhưng không can thiệp khi hải tặc Tàu đánh cướp ngư dân Việt, vì đó là tranh chấp dân sự như Nguyễn Chí Vịnh từng tuyên bố); hợp tác bảo đảm an ninh, thực thi pháp luật, phòng chống tội phạm giữa hai bộ công an, ngõ hầu bất cứ biểu hiện chống Tàu nào trên đất Việt đều phải bị bóp chết; (4) hợp tác phát triển kinh tế giữa hai nước trong khuôn khổ “hai hành lang, một vành đai”, hợp tác sản xuất vật liệu, máy móc, điện lực, năng lượng… để Tàu tiếp tục thắng thầu trong các công trình xây dựng cơ bản, đem kỹ thuật lỗi thời của Tàu ứng dụng tại VN; (5) hợp tác về giáo dục, văn hóa, du lịch và báo chí v.v… vận hành có hiệu quả học viện Khổng Tử tại Hà Nội; tăng cường giao lưu báo chí đôi bên, gia tăng mức độ tuyên truyền tình hữu nghị Trung-Việt, tổ chức gặp gỡ, liên hoan thanh niên hai nước, để tiếp tục tiêm nhiễm nọc độc “thần phục đại hán” vàođầu óc dân An Nam. Thế nhưng Tuyên bố chung lại không đề cập gì đến quyền tự do lưu thông được quốc tế công nhận, chẳng khẳng định rằng các hành động ở Biển Đông phải phù hợp luật pháp quốc tế, các tranh chấp tại đó phải giải quyết theo công pháp hoàn vũ. Kiểu hợp tác chiến lược toàn diện như thế chỉ đưa đến sự lệ thuộc ngày càng nặng nề, sự đồng hóa ngày càng lộ liễu. Đối với Tàu, VN càng lúc càng trở nên chư hầu trên mặt chính trị, con rối trên mặt ngoại giao, tôi đòi trên mặt văn hóa, bãi rác trên mặt thương mại, lá dâu tằm trên mặt lãnh thổ. Hậu quả là ngoài TQ, VN không có thân hữu, không là đồng minh với bất cứ quốc gia hùng mạnh nào, cũng chẳng là đối tác quan trọng với ai trên phương diện kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Chẳng những thế, VN hiện là một đất nước thường xuyên vi phạm nhân quyền trầm trọng, bị hầu hết mọi quốc gia lên án; một đất nước nghèo nàn lạc hậu, chuyên đi ăn xin không biết ngượng và luôn đội sổ những thống kê về nhiều mặt của thế giới. Cuối cùng là thái độ của Nhân dân VN. Do thấm thía sự cai trị mù quáng lẫn tàn bạo của Việt cộng và sự xâm lăng đa dạng lẫn trắng trợn của Tàu cộng, nhân dân đã phản ứng một cách đúng đắn, đầy tình yêu nước, trước chuyến “kinh lý” của Tập Cận Bình. Không ít tổ chức đoàn thể hoặc cá nhân trong lẫn ngoài nước đã ra nhiều lời tuyên bố kêu gọi, đã viết nhiều bài bình luận nghiên cứu, đã thực hiện nhiều chiến dịch đả kích tẩy chay. Cận ngày và chính ngày tên xâm lược tới Hà Nội, nhiều nơi trong lẫn ngoài nước -dù bị hăm dọa và đàn áp khốc liệt- đã xuống đường để “dàn chào” y, nhiều cộng đồng người Việt năm châu cũng biểu tình rầm rộ để vạch trần trước quốc dân và quốc tế âm mưu bành trướng của Đại Hán, hiểm họa lớn lao của Tàu cộng, bộ mặt đểu giả của tên xâm lược. Điều đó thật đáng ca ngợi! Tuy nhiên, ai cũng ao ước rằng nhờ tác động của các tổ chức xã hội dân sự độc lập, toàn dân trong nước sẽ ngày càng ý thức quốc nạn, trút bỏ sợ hãi, để xuống đường nhiều nơi hơn, đông đảo hơn, tới cả vạn triệu người; ao ước lực lượng an ninh biết đứng về phía nhân dân để bảo vệ ngọn triều dân tộc ấy, một ngọn triều cần có để quét sạch những gì và tống cổ những ai đang gây tai họa và khổ đau cho đất Việt! BAN BIÊN TẬP