Phát biểu của Đại sứ Ted Osius tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Ảnh: FB Ted Osius.
10/09/2015 – Ted Osius, Đại sứ Hoa Kỳ – Theo Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam
Chào tất cả các bạn. Xin chúc mừng Quốc khánh lần thứ 70 của Việt Nam. Tôi rất ấn tượng về lễ diễu binh – diễu hành hôm qua tại Quảng trường Ba Đình. Tôi hân hạnh có được cơ hội này để chia sẻ suy nghĩ của mình với các bạn về tương lai quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Tôi muốn cảm ơn lãnh đạo Học viện đã cho tôi cơ hội để nói chuyện với các bạn hôm nay. Tôi đặc biệt cảm ơn Phó Giám đốc Học viện Nguyễn Tất Giáp đã cùng tôi chủ trì sự kiện này. Cuối cùng, tôi muốn cảm ơn các cán bộ xuất sắc của Vụ Hợp tác Quốc tế đã cùng phối hợp tổ chức một cơ hội tuyệt vời như vậy.
Đầu tiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng tôi coi sự kiện này như một cuộc nói chuyện giữa những người bạn. Chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Washington vào tháng Bảy đã cho thế giới thấy rằng hai nước chúng ta là bạn bè, rằng chúng ta tôn trọng hệ thống của nhau, và rằng chúng ta đang tiến lên theo hướng tích cực.
Đây không phải là điều dễ dàng, hay hiển nhiên. Nhưng, từ hai mươi năm qua, chúng ta đã cho toàn thế giới thấy việc vượt qua một quá khứ đau thương và xây dựng một tương lai mới là như thế nào. Chúng ta đã học được nhiều bài học khó khăn và quý giá. Là những người bạn, chúng ta biết rằng khi chúng ta đối xử với nhau bằng sự tôn trọng, chúng ta có thể vượt qua mọi thách thức. Do vậy, chúng ta phải tiếp tục nói chuyện với nhau bằng sự tôn trọng, không chỉ ở những nơi chúng ta có lợi ích song trùng, mà cả ở những nơi chúng ta còn khác biệt.
Tôn trọng hệ thống chính trị của nhau không có nghĩa là chúng ta đồng ý về mọi thứ. Mà điều đó có nghĩa chúng ta sẽ tiếp cận mọi vấn đề theo hướng nhằm có thể tìm được điểm chung. Như Ngoại trưởng John Kerry – một người bạn lâu năm với Việt Nam – đã nhấn mạnh trong chuyến thăm của ông tới Hà Nội tháng trước, “Hoa Kỳ ghi nhận rằng chỉ có người dân Việt Nam mới có thể quyết định được hệ thống chính trị của mình. Và chúng tôi nói về những vấn đề này với đôi chút khiêm tốn, vì như các các bạn có thể đọc và biết rằng chúng tôi cũng đang nỗ lực để hoàn thiện hơn hệ thống của riêng mình.” Nhờ có nỗ lực, tầm nhìn chiến lược và khát khao của nhiều cá nhân trong chính phủ và khu vực tư nhân, chúng ta đã nhận ra rằng những gì gắn kết chúng ta có sức nặng hơn nhiều so với những gì làm chúng ta chia rẽ.
Vậy, điều gì đã gắn kết chúng ta?
Hai mươi năm trước, chỉ có chưa đầy 800 sinh viên Việt Nam học tập tại Hoa Kỳ. Hiện nay, hơn 17,000 sinh viên ưu tú từ đất nước của các bạn đang ngồi chật giảng đường các trường và các trường đại học của chúng tôi.
Hai mươi năm trước, kim ngạch thương mại hai chiều mới đạt 450 triệu đô la. Ngày nay, nó đã lên tới hơn 36 tỷ đô la.
Và còn nhiều hơn thế nữa.
Năm nay, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã xác định nhiệm vụ của chúng ta là chuyển mối quan hệ đối tác của chúng ta từ hợp tác song phương sang phối hợp hợp tác tầm khu vực và toàn cầu. Chúng ta có thể bắt đầu nhìn thấy thành công của nỗ lực đó. Nỗ lực như vậy chỉ có thể thực hiện được nhờ có tầm nhìn của các nhà lãnh đạo Việt Nam, những người đã lựa chọn thực hiện một chiến lược có tầm nhìn xa về hội nhập quốc tế toàn diện. Kể từ năm 2013, chiến lược này đã giúp Việt Nam đóng một vai trò lớn hơn bao giờ hết trong khu vực và toàn cầu. Chiến lược này nhận thức rằng tương lai của Việt Nam phụ thuộc vào việc Việt Nam là một thành viên chủ động và hiệu quả của một trật tự thế giới ủng hộ việc sử dụng các biện pháp hòa bình và pháp lý, chứ không phải là sử dụng phương thức cưỡng ép và sức mạnh quân sự, để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ như tại khu vực Biển Đông. Trật tự đó khuyến khích hợp tác đa phương, chứ không phải là hành động đơn phương, để giải quyết các mối đe dọa phức tạp toàn cầu không giới hạn bởi các đường biên giới do con người tạo ra, ví dụ như vấn đề biến đổi khí hậu và dịch bệnh. Trật tự đó bảo vệ những nguyên tắc thương mại có khả năng giải phóng tiềm năng để phát triển thịnh vượng và đổi mới sáng tạo mang lại lợi ích cho toàn cầu như Hiệp định Đối tác xuyên Thái bình dương. Cuối cùng, Việt Nam đã thể hiện rằng Việt Nam muốn trở thành một thành viên của một trật tự quốc tế coi trọng nguyên tắc nhà nước pháp quyền như là nền tảng cần thiết cho một xã hội công bằng và bình đẳng.
Việt Nam ghi nhận rằng những gì diễn ra vượt qua phạm vi biên giới của mình đều rất quan trọng đối với sự sống còn của chính Việt Nam, và rằng chúng ta đang sống trong một thế giới mà những vấn đề xuyên quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp tới sự ổn định và thịnh vượng ở trong nước. Hôm nay, tôi sẽ đề cập đến năm lĩnh vực mà quan hệ đối tác của chúng ta đã chuyển từ hợp tác song phương lên hợp tác tầm khu vực và toàn cầu, và sẽ trao đổi về những nỗ lực của Việt Nam trong việc tăng cường nhà nước pháp quyền trong nước. Năm lĩnh vực này là:
1. chặn đứng sự lan truyền dịch bệnh;
2. xây dựng một ASEAN vững mạnh hơn;
3. chấm dứt việc phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt;
4. hoạt động giữ gìn hòa bình quốc tế; và
5. Thương mại xuyên Thái Bình Dương.
Trước hết, Việt Nam là nước đi đầu trong Chương trình An ninh Sức khỏe Toàn cầu, nhằm kiểm soát sự lây lan dịch bệnh. Vai trò đối tác của Việt Nam thể hiện sự ghi nhận rằng các quốc gia cần chung tay trong một kế hoạch tổng thể và bền vững nhằm bảo đảm sức khỏe cho các công dân của chúng ta. Vì vậy tôi rất vui mừng rằng Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Washington đã ký một Bản Ghi nhớ về xây dựng năng lực nhằm phòng ngừa và ứng phó lây lan dịch bệnh. Đối mặt với thách thức này sẽ đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ và nỗ lực đa phương.
Thứ hai, Việt Nam hiện đã đang đóng một vai trò chủ động trong ASEAN nhằm tăng cường khả năng của tổ chức này trong việc thúc đẩy ngoại giao phòng ngừa và xây dựng lòng tin trong khu vực. Hoa Kỳ ủng hộ những nỗ lực mạnh mẽ của Việt Nam trong vấn đề này, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho tình hình căng thẳng trên biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế.
Thứ ba, quyết định của Việt Nam vào năm 2014 tham gia Sáng kiến An ninh Chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt cho thấy mong muốn của Việt Nam trong việc ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Việc phổ biến vũ khí hạt nhân là mối quan ngại đối với mọi thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Ngày nay, hơn 100 quốc gia đã cam kết ngăn chặn việc buôn bán vũ khí hủy diệt hàng loạt, phá huỷ các hệ thống chuyển tải các loại vũ khí này, và ngăn ngừa việc phổ biến các loại vật liệu liên quan tới hoặc từ các đối tượng gây quan ngại.
Thứ tư, sau khi đảm nhiệm một cách hiệu quả vai trò thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã trở thành một đối tác trong chương trình Gìn giữ Hòa bình của Liên hợp quốc. Năm ngoái, Việt Nam đã bắt đầu đóng góp vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, với những kế hoạch gửi các đơn vị công binh, quân y và các đơn vị chuyên môn khác trong tương lai gần. Cùng với một số nước khác, Hoa Kỳ đang giúp cho các cán bộ Việt Nam có đủ năng lực để chuẩn bị cho các đợt triển khai đặc biệt này.
Thứ năm, trong lĩnh vực thương mại, Việt Nam đang thể hiện mong muốn tiếp tục tiến trình hội nhập kinh tế của mình. Mười hai quốc gia đang đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), chiếm gần 40 phần trăm tổng thương mại toàn cầu. Khi hoàn tất TPP, chúng ta sẽ xây dựng được một khuôn khổ cấp khu vực chưa từng có nhằm thúc đẩy sáng tạo và tạo việc làm, cải thiện môi trường, cải thiện điều kiện làm việc và tăng cường các mối quan hệ thương mại từ Hà Nội và Tokyo tới Santiago và Washington D.C. Không có gì ngạc nhiên khi các cuộc khảo sát đã cho thấy sự ủng hộ mạnh mẽ đối với hiệp định mang tính lịch sử này ở cả hai nước chúng ta. Tăng cường thương mại với những tiêu chuẩn cao hơn – trong đó có quyền thành lập các tổ chức công đoàn độc lập – là một cột mốc rất quan trọng trên con đường tiến tới một tương lai chung và bền vững. Hoa Kỳ và các đối tác sẽ giúp Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết liên quan tới TPP.
Tầm mức các cam kết quốc tế của Việt Nam là ấn tượng. Và còn ấn tượng hơn nữa là những nỗ lực quan trọng mà Việt Nam đang tiến hành để cải cách hệ thống pháp luật nhằm thực hiện những cam kết quốc tế đó và sửa đổi các luật cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013.
Việt Nam đã phê chuẩn 7 hiệp ước và văn kiện quốc tế quan trọng về nhân quyền, trong đó gần đây nhất là Công ước Liên hợp quốc về Chống Tra tấn và Công ước Liên hợp quốc về Quyền của Người Khuyết tật. Kể từ năm 2013, Chính phủ Việt Nam đã và đang sửa đổi, bổ sung các bộ luật dân sự, hình sự, và tố tụng hình sự cho phù hợp với bản Hiến pháp mới. Kết hợp lại, những cam kết quốc tế và cam kết trong nước này đảm bảo cho các công dân Việt Nam các quyền tự do và những quyền cơ bản khác. Hoa Kỳ và các đối tác khác sẵn sàng ủng hộ những nỗ lực của Việt Nam trong việc tăng cường nhà nước pháp quyền.
Trên toàn thế giới, đặc biệt là ở châu Á, chúng tôi thấy rằng những quốc gia có mức độ phát triển cao về kinh tế và xã hội đều dành ưu tiên để có nền tư pháp mạnh và độc lập. Chẳng hạn, trong những năm gần đây Tòa án Hiến pháp độc lập của Hàn Quốc đã quyết định vô hiệu hóa các luật hạn chế tự do hội họp và quyền bầu cử của công dân. Thay vì gây ra bất ổn chính trị, các quyết định đó đã tăng cường lòng tin của người dân Hàn Quốc vào hệ thống tòa án và chính phủ của họ. Trong chuyến thăm của Thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ Ruth Bader Ginsburg tới Hà Nội tháng trước, bà thẩm phán đã gặp gỡ các quan chức cao cấp của Tòa án Nhân dân Tối cao. Họ đã thảo luận về cơ cấu mới của ngành tư pháp Việt Nam và về yêu cầu mà Hiến pháp 2013 đặt ra cho ngành tòa án đối với việc bảo vệ các nguyên tắc về quyền con người, nhà nước pháp quyền và sự độc lập của ngành tư pháp. Chúng tôi ủng hộ các mục tiêu này vì tất cả chúng ta đều biết rằng một nền tư pháp độc lập và được trao quyền để bảo vệ các quyền của công dân sẽ làm tăng thêm lòng tin của người dân vào chính quyền.
Việc Việt Nam gia nhập TPP sẽ giúp các bạn đạt được những mục tiêu về tăng cường tính minh bạch và khả năng quản trị cởi mở hơn trong một loạt các vấn đề, từ cạnh tranh đến thủ tục hải quan đến mua sắm chính phủ. Quốc hội cũng sẽ xem xét những dự án luật giúp Việt Nam tuân thủ các quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế về việc thành lập các tổ chức công đoàn. Những cam kết này sẽ thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân vào quá trình phát triển một môi trường pháp lý vững mạnh. Điều không kém phần quan trọng là Dự thảo Luật Tôn giáo và Tín ngưỡng dự kiến sẽ được trình ra Quốc hội. Tuy vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện, dự luật này là cơ hội quan trọng để Việt Nam thể hiện mong muốn thúc đẩy một xã hội pháp quyền mà trong đó các cá nhân và tập thể được tự do theo đuổi tín ngưỡng mà họ lựa chọn.
Khi tôi gặp Giám đốc Học viện Tạ Ngọc Tấn hồi tháng Năm, chúng tôi nhất trí rằng sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thể hiện bản chất đặc biệt của quá trình hoà giải giữa hai bên trong 20 năm qua. Tôi đã trực tiếp chứng kiến những bước phát triển trong quan hệ giữa hai nước. Với mỗi chuyến thăm và trao đổi cấp cao, tôi lại thấy nền tảng lòng tin được củng cố hơn để chúng ta có thể tạo lập quan hệ mạnh mẽ hơn. Và tôi nhận thấy vai trò quan trọng của Học viện trong mối quan hệ này vì đây là nơi đào tạo thế hệ lãnh đạo tương lai của Việt Nam.
Chúng ta đã gửi nhiều đoàn cán bộ của Đảng và chính phủ Việt Nam tới tham dự các khóa học tại Trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á-Thái Bình Dương (APCSS), nơi cung cấp hoạt động đào tạo quan trọng về các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Chúng tôi mong muốn được tiếp đón nhiều hơn nữa các nhà lãnh đạo đầy triển vọng của Việt Nam tại ACPSS cũng như tại các tổ chức giáo dục khác.
Chúng tôi hy vọng giúp chuẩn bị cho các cán bộ Việt Nam khả năng quản lý được các mối đe dọa liên quan đến biến đổi khí hậu và an ninh y tế. Dự án Rừng và Đồng bằng Việt Nam do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ đang hỗ trợ xây dựng một giáo án và chương trình đào tạo tại Học viện tập trung vào vấn đề biến đổi khí hậu. Sự hỗ trợ này bao gồm việc xây dựng một đầu sách giáo khoa, một cẩm nang đào tạo và thực hành, và chương trình đào tạo cho các giảng viên về biến đổi khí hậu. Chúng ta cũng đã bắt đầu thảo luận về việc hỗ trợ vai trò của Học viện trong việc đào tạo các cán bộ về các mối đe dọa an ninh y tế, cũng tương tự như những gì chúng ta đã làm trước đây trong lĩnh vực chính sách y tế như HIV/AIDS.
Sự hợp tác này đảm bảo rằng thế hệ lãnh đạo tới của Việt Nam sẽ tiếp tục hiểu rõ những tác động của biến đổi khí hậu và thể hiện vai trò đi đầu ở tầm toàn cầu, như những gì Việt Nam dự kiến sẽ làm tại hội nghị của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu ở Paris cuối năm nay.
Trong lĩnh vực chính trị, Học viện đã đón tiếp Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman và thảo luận thẳng thắn về TPP, Đại sứ Thomas Shannon – Cố vấn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Đại sứ Hoa Kỳ tại ASEAN Nina Hachigan, và một phái đoàn gồm 17 tướng một sao của Học viện Quốc phòng Hoa Kỳ là những người sẽ trở thành thế hệ lãnh đạo quân sự kế cận của chúng tôi. Những cuộc trao đổi này tạo ra những kênh rất quan trọng để tăng cường lòng tin và sự hiểu biết giữa hai nước chúng ta.
Trên tinh thần tin cậy và hiểu biết này, tôi vui mừng thông báo rằng chúng ta sẽ kết thúc năm kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao này bằng một hội thảo đồng tổ chức với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào tháng Mười Hai. Tôi hy vọng sự kiện này sẽ góp phần để chúng ta cùng nhau vạch ra con đường phía trước. Và tôi nghĩ rằng không có tổ chức nào xứng đáng hơn Học viện của các bạn để làm điểm nhấn cho tương lai của chúng ta.
Một lần nữa xin cám ơn các bạn đã giành thời gian lắng nghe tôi hôm nay. Tôi xin chúc các bạn không gì khác hơn là thành công và hạnh phúc. Bây giờ tôi rất vui mừng được trả lời các câu hỏi của các bạn.