Bà Tổ Trưởng – Mây-cao-Nguyên
Sau khi miền Nam bị Việt cộng cưỡng chiếm, chúng đã sát nhập hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa thành tỉnh Phú Khánh. Mật khu Đồng Bò cách thành phố Nha Trang vào khoảng năm cây số về phía Nam, nơi đây Trung Đoàn Trường Sơn I qui tụ những chiến sĩ can trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ biết hàng giặc, đã đánh phá ác liệt cuối năm 1976 đã làm cho chúng mất ăn, mất ngủ. Đồng Bò là phường thứ 13 của tỉnh Phú Khánh, về phía Đông có Cầu Đá là một hải cảng của tỉnh, dọc theo bến tàu là những cửa hàng bán hải sản và quà lưu niệm. Vì là địa thế chiến lược quan trọng sát với Không Đoàn 2 và Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân cũ, nên chúng đã chọn những gia đình có công với Cách Mạng để lên đó khẩn hoang, lập ấp. Đồng Bò trở thành Khu Kinh Tế Mới được nhiều người mơ ước. Bác Tư Tổ Trưởng Dân Phố được cấp một diện tích đất bề ngang hai mươi thước, bề dài tám mươi thước để cất nhà ở và làm nơi trồng trọt. Đêm hôm đó trời không trăng, sao, tối đen như mực, chỉ có những con đôm đốm lập lòe trên những ngọn cây. Trời càng tối sự yên lặng càng nổi bật, mỗi tiếng động dù nhỏ cũng nghe rõ mồn một. Xa xa về hướng làng Phước Xuân tiếng chó sủa nghe thật gần, và một người đàn ông đang dò dẫm trên đường cũng nghe thấy tiếng dội của những bước chân của mình.
Thỉnh thoảng chàng cố gắng để đi thật yên lặng, nhưng con đường đất đầy gai gốc, và tiếng kêu rắc rắc, xào xạc của đám gai cũng lớn như tiếng bước chân của chàng trên mặt đường. Ngoài ra, chàng không cách nào đi nhanh được.
Khi đến tại căn nhà tranh của bà Tư chàng dừng lại. Chàng nhìn vào khung cửa sổ leo lắt ánh sáng, không màn che. Chàng thấy bà Tư cúi mình trên bếp để nhấc ấm nước. Chàng do dự và có vẻ lo lắng. Thân thể chàng trông mảnh khảnh, da ngâm đen, trang phục một bộ áo quần màu nâu cũ kỹ đã bạc màu. Chàng quyết định không gõ và đưa tay đẩy cửa bước thẳng vào.
Bà Tư đứng gần bếp lửa quay nhanh lại nhìn.
-“Mày đó hả Thanh?. Sao không chịu lên tiếng?”.
-“Cháu không dám vì không muốn ai nghe thấy”.
-“Sao vậy?”.
-“Cháu đang gặp nguy hiểm. Xin bác cứu giúp cháu”. Đôi tay chàng hơi run.
-“Mày đã làm gì?”.
-“Cháu vừa mới bắn nhau với bọn công an phường”.
-“Trời đất! Có ai chết không?”.
-“Làm sao cháu biết được!”.
Trong giây lát một sự im lặng đè nặng trong căn bếp nhỏ, bề bộn. Ấm nước đang sôi bà Tư nhấc nó để sang một bên.
Bà là một người đàn bà nhỏ con, gầy còm, khuôn mặt khắc khổ, sạm nắng, khô đét in hằn những nếp nhăn. Bà chưa quá 60 tuổi, nhưng cuộc đời đã đối xử với bà quá tàn nhẫn. Bà đã lâm vào cảnh góa bụa lúc tuổi ba mươi.
-“Mày muốn tao giúp mày bằng cách nào đây?”.
Bà nói với một giọng hơi chua chát.
-“Bác cho ẩn núp ở đây để chờ yên tỉnh cháu sẽ tìm cách ra đi. Bây giờ, bọn công an Phường phối hợp với du kích địa phương chúng đang lùng sục khắp mọi nơi”.
-“Tao không hiểu được tụi mày. Đã đi học tập đường lối và chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà Nước, sao còn hành động phản lại Cách Mạng như vậy?”.
-“Bác cũng dư hiểu, tụi cháu đang nằm trong địa bàn chiến lược của chúng, chỉ có hai con đường để lựa chọn: một là chết, hai là sống tự do. Không có cách nào khác. Vì vậy, cháu đã lẻn ra điểm hẹn để cướp tàu vượt biển, không ngờ lại bị lọt vào ổ phục kích. Chúng đã nổ súng, cháu phải bắn trả lại. Bác hãy giúp cháu vì tình bạn giữa cháu và Hưng”.
Bà Tư trầm ngâm trong giây lát.
Thanh nhìn bà dò xét.
-“Lúc đương quyền, mày đâu có giúp đỡ được gì cho thằng Hưng đâu mà kể công. Nó đã bị sa thải khỏi Không Quân vì tội làm nội tuyến”. Bà Tư sừng sộ.
-“Cháu chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ, làm gì có đủ thực quyền để cứu Hưng với những bằng chứng và tội trạng quá rõ ràng đã cung cấp bản đồ phòng thủ phi trường cho Việt cộng. Tuy vậy, Hưng và cháu vẫn là đôi bạn chí thân từ trước đến nay. Nếu có Hưng đêm nay ở đây, hắn làm gì cũng van xin bác giúp đỡ cháu qua cơn hoạn nạn”.
-“Tao không nói nó quay lưng, ngoảnh mặt đối với mày, nó luôn luôn nói tốt về mày. Thôi được rồi, mày có thể trốn ở đây chờ nó về, rồi để nó phân xử”.
-“Nó vừa lên trên đồn công an phường có chút việc. Thằng đồn trưởng mới ra Bắc nghỉ phép, nó phải lên thay. Nghe nói lúc này, dân vượt biển quá nhiều và bọn ngụy lại về quấy phá”.
-“Cháu chỉ trốn ở đây đến gần sáng cháu xin đi. Có thể cháu sẽ trốn ra khỏi xứ”.
-“Mày đi bằng cách nào?”.
-“Cháu chưa biết. Có thể bằng đường bộ hoặc cháu sẽ cướp tàu vượt biển. Cháu chưa có đủ thì giờ để suy nghĩ”.
-“Mày có thể tính kế ngay ở đây, đêm nay”, bà nói một cách khô khan, mở cánh cửa nhà bếp thông ra phòng nhỏ chứa ngũ cốc ở đàng sau chái bếp. “Không có ai dám đụng đến cái lông chưn của mày đâu, trừ phi tao nộp mày cho chúng”.
-“Bác đúng là một người: “Khẩu xà, tâm Phật”. Ơn cứu tử của bác cháu sẽ không bao giờ quên”.
Bà không nói một lời nào, lặng lẽ đóng cửa, và chàng đang ngồi trong bóng tối vây quanh chỉ có một vệt sáng từ bếp chiếu vào qua kẽ vách. Từ vệt sáng này chàng có thể thấy bà Tư đi lại, chuẩn bị bữa cơm tối cho Hưng, đứa con độc nhất của bà. Thanh tin tưởng Hưng sẽ giúp đỡ chàng, vì hai người đã cùng chung một làng, chung một trường, tốt nghiệp quân sự cùng một khóa tại Trường Bộ Binh Thủ Đức và cùng đổi về làm chung đơn vị. Vì tội làm nội tuyến cho địch, Hưng đã bị ở tù và bị tước hết binh quyền và bị sa thải khỏi quân đội. Cá tính và nghề nghiệp tuy khác nhau, nhưng tình bạn giữa hai người vẫn như cũ không hề bị sứt mẻ.
Thanh ngồi xuống trên những bao thực phẩm khô ở góc chái. Mùi vị chiên xào thơm phưng phức từ bếp lọt vào, và chàng hy vọng bà Tư không nỡ từ chối cho chàng ăn ké phần cơm của Hưng khi hắn về, vì chàng quá đói và còn phải chạy trốn qua bao nhiêu chặng đường dài.
Chàng mệt mỏi và ngủ thiếp đi lúc nào không biết, khi nghe tiếng chân chạy thình thịch ngoài đường chàng giựt mình thức giấc.
Trong khoảnh khắc quả tim đập thình thịch khiến chàng muốn nghẹt thở. Bọn công an vũ trang. Chúng đã đoán biết chàng đang ở đâu- với bà Tư, Tổ Trưởng Dân Phố, mẹ của phó đồn trưởng Nguyễn khắc Hưng bạn cũ của chàng. Chàng đúng là một gã khờ lại đem nộp mạng đúng ngay ổ. Gần mất đi sự tự chủ, chàng co mình lại trong hóc, run rẩy, gần bậc khóc. Nhưng những bước chân vụt chạy qua. Kế đó bà Tư thò đầu vào trong chái kho nói nhỏ:
-“Bọn du kích xã đội mũ tai bèo. Tao vừa mới thấy tụi nó chạy thoáng qua. Chúng nó có súng và đèn pin. Có thể tốt hơn hết mày nên lẻn ra, chạy ngược lại về hướng Đồng Bò, nhắm Cầu Đá, khu dân chài ở, để kiếm kế cướp tàu vượt biển”.
Bà đi vào trong phòng ngủ. “Đây, một ít tiền mày cầm đi đường. Lỡ có gì cũng có để mà tiêu xài”.
Thanh nghẹn ngào, xúc động và nói: “Cháu không biết làm cách nào để đền ơn bác”.
-“Không ơn nghĩa gì hết. Tao có giúp mày cũng chỉ để cái đức lại cho thằng Hưng”.
-“Cháu hy vọng bác sẽ không bị phiền phức khi chúng biết được bác đã dung dưỡng một tử tội như cháu”.
-“Đừng sợ gì hết. Không có thằng nào, con nào biết được mày trong căn nhà nầy đâu. Tao là một Tổ Trưởng nổi tiếng ác ôn đã được Tỉnh Ủy tuyên dương nhiều lần. Không ai dám đụng đến sợi tóc của tao. Hơn nữa, thằng Hưng là Phó đồn Công An Phường 13. Tao muốn mày trốn đi sớm trước khi thằng Hưng trở về, nó luôn luôn kéo bè, kéo bạn nhậu nhẹt tại nhà, và đó mới là điều phiền phức”.
Bà mở cánh cửa nhà kho cho Thanh, nhưng cả hai người đều đứng im lặng, vì có tiếng chân của nhiều người từ hướng Nam đang đi tới.
-“Có thể thằng Hưng đi làm về”, bà Tư nói.
-“Không phải một người đâu bác, con nghe xì xào nhiều tiếng nói lắm”.
-“Mày nên trở vô lại, nhanh lên”, bà nói vội. “Chờ cho chúng nó đi qua khỏi rồi hãy hay”.
Chàng miễn cưỡng lách mình trở vào ẩn mình trong góc tối hôi hám, bụi bặm, và bà Tư đóng và khóa cánh cửa nhà kho.
Những bước chân càng tiến lại gần hơn. Lúc này nghe có vẻ chậm chạp và nặng nề. Chàng đoán là chúng cũng chỉ đi ngang qua, nhưng chúng băng qua những bụi khoai mì trước cửa ngõ để tiến vào nhà. Kế đó, có tiếng gõ cửa. Như vậy, không phải là Hưng.
Run rẩy trong nỗi lo lắng và tò mò, Thanh đặt mắt vào trong một những khe hở của ngạch cửa và nhìn xuyên qua nhà bếp. Chàng thấy bà Tư đi mở cửa, nhưng trước khi bà đưa tay mở cửa tên công an đã nhanh nhẹn lách mình vào và đóng cửa lại.
Thanh nhận ngay Linh, một tên công an khét tiếng đanh ác, mà bất cứ một người nào bị bắt vào đồn cũng đều kinh sợ, và chàng cảm thấy tay chân của mình lạnh ngắt. Như vậy, chúng đã biết chàng ở đây rồi chứ không sai. Chúng đã đuổi theo chàng. Chúng đoán chàng ẩn trốn trong căn nhà này vì sự quen biết. Nhân dân là tai mắt của Đảng, một con chuột cũng không thể nào chui lọt khỏi màn lưới an ninh của chúng được. Tại sao chàng không nghĩ cách thoát thân nào hơn lại chui vào đây nạp mạng? Thật là một điều xuẩn ngốc. Sợ tái cả người, đôi chân của chàng bủn rủn, và chàng ngồi bệt trên nền đất sét.
Tên công an hình như có một cái gì khó nói với bà Tư. Hắn đứng lặng im trước mặt bà, tay mân mê vành nón cối.
-“Cái gì đó, Linh?” Bà hỏi.
-“Má Tư, con muốn thưa với má một chuyện”.
Thanh áp má vào kẻ vách gióng tai nghe, vì nhịp tim của chàng đập thình thịch gần như át cả tiếng bói ở bên ngoài nhà kho. Chàng đoan chắc, bà không lẽ nào đem giao nộp chàng cho bọn chúng. Bà đã hiểu quá nhiều về thủ đoạn gian manh bịp bợm của bọn quỷ đỏ vô lương, nên ngoài mặt bà đã đóng rất trọn vai trò của bà Tổ Trưởng Dân Phố chỉ hại những tên cộng sản 30 hà hiếp dân lành và luôn luôn bao che cho những người vô tội. Bà chỉ còn đứa con trai độc nhất là Hưng. Bà đã tâm nguyện suốt quảng đời ngắn ngủi còn lại, bà phải hy sinh cho con với bất cứ giá nào.
-“Chuyện gì?” Bà hỏi với một giọng đanh thép, trong khi tên công an còn cứng lưỡi.
-“Má Tư, con xin báo cho má một tin buồn”.
Sắc diện bà thay đổi.
-“Không phải thằng Hưng chứ?”.
-“Anh Hưng đang ở ngoài kia”, tên công an nói.
-“Mày nói cái gì tao chẳng hiểu” Bà vừa nói, vừa lách mình đi ra cửa.
-“Đừng má. Chờ đây đến khi con thưa hết chuyện với má”.
-“Thưa chuyện gì nữa? Trời đất! Còn chờ gì nữa, kể nhanh lên”. Và bà cố đẩy hắn sang một bên để bước đi.
-“Anh Hưng đêm hôm nay có nhiệm vụ đi phân bổ công tác, bố trí địa điểm phục kích bọn tàn quân. Chúng con nghe tiếng động bất thường từ một bụi rậm….Trời tối quá không thấy gì hết, chỉ thấy một bóng đen phóng mình vụt chạy-Chúng con đã nổ súng thị uy, và hắn đã bắn trả lại….”.
Tên công an ngừng nói và nhìn bà dò xét, như thể mong bà hiểu ngầm đoạn kết của câu chuyện. Trong góc nhà kho chính Thanh là bóng đen đã nổ súng để trốn thoát.
-“Hưng ơi!…” Bà Tư nghẹn ngào.
Bà phóng nhanh ra cửa. Bọn công an bên ngoài đang đứng chờ dấu hiệu, và chúng bước vào, khiêng vật gì đó, chúng đặt nhẹ xuống nền nhà.
-“Nó chết chưa?” Bà Tư hỏi một cách khô khan.
Bọn chúng gật đầu. Chúng chưa bao giờ nghe ai hỏi với một giọng dửng dưng, khô héo như giọng của bà.
Trong nhà kho Thanh không còn toát mồ hôi và run sợ nữa. Sức mạnh đến trong sự tuyệt vọng, vì chàng biết bây giờ mới là giây phút tuyệt vọng. Ngoài ra, chàng không còn mong muốn trốn thoát trước sự việc mà chàng đã hành động trong đêm hôm nay. “Hưng ơi! Tha tội cho tao. Đâu có ngờ lại là mày, người mà tao thương mến như tình ruột thịt lại lãnh viên đạn oan nghiệt. Tao không còn muốn sống nửa”, Chàng đưa tay ôm mặt thì thầm.
Bà Tư đang ngồi trên chiếc ghế bành đan bằng mây cũ kỹ kế bên bếp lửa. Một trong những tên công an lên tiếng:
-“Con chạy qua nhà bác Hai mời bác ấy qua ở với má cho đỡ buồn”.
-“Đây là một thảm kịch cho gia đình của má. Với bất cứ giá nào, tụi con sẽ thẳng tay trừng trị tên phản động ác ôn này mới thỏa lòng. Ngày mai tụi con sẽ triệu tập hết tất cả bọn sĩ quan ngụy lại một chỗ để điểm danh, thằng nào còn, thằng nào mất là biết ngay”.
Thanh đứng thẳng dậy, nhìn qua kẻ hở của cánh cửa. Chàng thấy bà Tư đang mệt mỏi gượng đứng dậy, nhìn xuống khuôn mặt của xác chết. Chàng thấy bà cho tay vào túi áo, trong đó bà cất xâu chìa khóa nhà kho.
-“Tụi con đã bố trí du kích chận khắp các ngả đường, lùng sục tất cả những nơi khả nghi. Đêm hôm nay má có nghe thấy có ai chạy ngang qua đây hay không?”.
Im lặng một lúc. Bà nói “không. Từ sáng đến giờ tao không thấy một ai bén mảng quanh đây và cũng chẳng có dấu hiệu gì đáng nghi cả”. Bà rút tay ra khỏi túi áo.
-“Thôi, sự việc đã xảy ra như thế này xin má cũng đừng quá bi lụy. Con đi mời bác Hai qua đây ở với má cho có bầu, có bạn”.
Bà Tư gật đầu.
-“Tụi mày khiêng xác thằng Hưng vào trong phòng ngủ đến mai có người đến tẩm liệm, rồi muốn đi đâu thì đi”.
Bốn tên công an cúi xuống nhấc cáng và khiêng xác Hưng vào phòng ngủ. Sau đó mỗi tên đến nắm tay bà an ủi và ra đi.
Bà chờ cho đến khi chúng đi khỏi hẳn. Bà gài cửa, rồi bà đi thẳng đến nhà kho. Thanh cảm thấy lạnh bắn cả người. Chàng không thể nào chịu đựng nổi. Chẳng thà để cho bọn công an bắt còn hơn đối diện với bà Tư. Chàng nghe bà tra chìa khóa vào ổ khóa và chàng muốn hét lên.
Nhưng bà không nói lấy một lời. Bà chỉ mở khóa cửa kho và lê từng bước nặng nhọc vào căn phòng nơi xác của Hưng đang nằm để chờ tẩm liệm.
Thanh biết chàng phải làm gì- Chỉ có một điều duy nhất bà Tư muốn chàng phải làm là mở cửa kho và thầm lặng trốn đi.
Đã gần bốn mươi năm mất nước, chàng đã mang một nỗi buồn vô tận trên bước đường lưu lạc nơi xứ người. Thanh vẫn luôn luôn chu cấp cho bà Tư để đền ơn cứu tử và chàng coi bà như một người mẹ thứ hai trong đời.
Mây-cao-Nguyên