Ảnh hưởng của “Bảy chị em” (Seven Sisters) tới VN
I. “BẢY CHỊ EM” (Seven Sisters) nghĩa là gì?
“BẢY CHỊ EM ” hay tiếng Anh còn gọi là “Seven Sisters ” là tiếng lóng để ám chỉ bảy công ty dầu hỏa lớn nhất thế giới , nắm khoảng 85%—95% trữ lượng dự trử dầu hỏa của thế giới. Khởi thủy ( lúc ban đầu) , “BẢY CHỊ EM” trong ngành dầu hỏa bao gồm các công ty sau đây:
•Exxon (xuất thân từ Standard Oil of New Jersey)
•Mobil (xuất thân từ Standard Oil of New York)
•Chevron (xuất thân từ Standard Oil of California)
•Texaco
•Gulf Oil
•Shell
•British Petroleum
Về sau này, Exxon xác nhập với Mobil vào năm 1998 để trở thành ExxonMobil, Chevron mua đứt Texaco vào năm 1984 và Britist Petroleum mua đứt Gulf Oil cho nên “BẢY CHỊ EM” lần hồi không còn đúng nữa nhưng thành ngữ “BẢY CHỊ EM” vẫn được sử dụng để ám chỉ các công ty dầu hỏa hàng đầu của thế giới.
Hiện tại thì Chevron và Texaco, hai thành viên quan trọng nhất của giới “BẢY CHỊ EM” đang khai thác dầu hỏa tại Việt Nam. Riêng Chevron thì cho là đã có mặt tại Việt Nam ngay năm 1994, tức là năm Hoa Kỳ chính thức bãi bỏ mọi cấm vận đối với Việt Nam. Xin được ghi chú là thêm hai công ty Chevron và Texaco đã vào Việt Nam còn đội lốt dưới cái tên khác là CALTEX.
Như vậy “BẢY CHỊ EM” thực sự có mặt tại Việt Nam từ lâu và những bí ẩn riêng tư bên trong của giới “BẢY CHỊ EM” ảnh huởng lên chính trị, lịch sử, và kinh tế của Việt Nam là điều mà cần phải phân tích cặn kẽ tận tường khi bình luận hay khi đưa ra những đối sách chính trị ngoại giao cần thiết cho Việt Nam
II. Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” lên nền chính trị Việt Nam hiện nay:
Cơ quan US Energy Information Administration gọi tắt là EIA của Hoa Kỳ loan báo chính thức là trữ lượng dầu hỏa tại Biển Đông lên đến 11 tỷ thùng và 190 ngàn tỷ cubic ft khí đốt (một cubic foot tương đương với 0.28 mét khối)
EIA cũng đưa ra bản thống kê chính thức trữ lượng dầu hỏa và khí đốt của các nước trong vùng biển Đông như sau:
Bảng thống kê 1: Dự trữ dầu hỏa tại biển Đông
Như vậy, trữ lượng dầu thô của Việt Nam (3 tỷ thùng) không thôi đã chiếm gần 27.3 % gần một phần ba trữ lượng của toàn vùng. Còn về lượng khí đốt thì Việt Nam đã đứng hang thứ ba trong vùng theo bảng tổng kết trình bày ở trên từ EIA.
Dữ liệu do chính EIA đưa ra cho thấy Việt Nam đã có thể cán đáng sản xuất gần 300 ngàn thùng dầu thô mỗi năm, tức là tương đương với khoảng 13.5 tỷ Mỹ kim mỗi năm nếu giá dầu thô chỉ là 45 Mỹ kim một thùng.
Biểu đồ 1: Mức tăng trưởng sản xuất dầu hỏa của Việt Nam
Dựa vào biểu đồ 1, nếu lấy năm 1994 làm cột mốc vì là năm Hoa Kỳ chính thực bãi bỏ cấm vận, thì sản lượng dầu thô của Việt Nam đã tăng từ 150 ngàn thùng một năm lên đến hơn 300 ngàn thùng một năm, gấp đôi tổng sản lương trong hai mươi năm.
Rõ ràng, với trình độ kỹ thuật và khả năng khai thác của Việt Nam không thể tạo ra sự nhẩy vọt về tổng sản lượng nếu như không có “BẢY CHỊ EM” ta đứng đằng sau trợ sức mọi mặt từ vốn đến kỹ thuật.
Quan trọng hơn hết, toàn bộ miền duyên hải phía nam của Việt Nam, trong đó có quần đảo Trường Sa (Sparatly Islands) thuộc chủ quyền của Việt Nam nằm hoàn toàn trên tuyến đường chuyên chở dầu hỏa khắp cả vùng châu Á Thái Bình Dương, theo sự xác nhận của EIA với tổng số lên đến 11 triệu thùng một ngày vào năm 2011 được phân bố ra các quốc gia như bản đồ dưới đây:
Họa hình 1: Khối lượng vận chuyển dầu hỏa ngang qua biển Đông
Như vậy, nguồn lợi thu được từ thuế hàng hải khi vận chuyển dầu hỏa qua hải phận đối với các quốc gia trong vùng và nhất là đối với Việt Nam, hiện đang kiểm soát 29 đảo của quần đảo Trường Sa vô cùng to lớn.
Do đó, nhằm đảm bảo quyền lợi lâu dài lên đến cả trăm năm, “BẢY CHỊ EM” cần phải có những ảnh huởng chính trị cần thiết lên chính trường Việt Nam cũng như cần chính phủ Hoa Kỳ can thiệp mạnh mẽ để sự đi lại hàng hải, chuyên chở dầu hỏa trên con đường này không bị Hải quân TC bắt nạt và buộc phải đóng thêm thuế hàng hải cho TC.
TC đã nhiều lần kiếm cách phá rối, hăm dọa cũng như áp lực lên giới “BẢY CHỊ EM” bằng nhiều kiểu cách khác nhau nếu tiếp tục bắt tay với Việt Nam khai thác dầu hỏa, khí đốt trong vùng.
Việc TC đưa dàn khoan dầu khổng lồ 981 vào lãnh hải Việt Nam vào ngày 2 tháng Năm năm 2014 với dàn hải quân hùng hậu hộ tống cũng chính là nhằm dằn mặt “BẢY CHỊ EM” ta đã phớt lờ TC khi ký kết các hợp đồng khai thác tại vùng biển này và nhất là tại Cửu Long Basin, phía nam duyên hải Việt Nam mà TC đã ngang ngược cương quyết đòi chủ quyền. Ngoài ra, TC cũng muốn nhìn phản ứng của “BẢY CHỊ EM” ra sao trước tình huống này (political benchmark testing).
“BẢY CHỊ EM” biết quá rõ về lâu về dài, khi TC đã không chế được tình hình rồi thì TC sẽ tự bỏ vốn khai thác, “BẢY CHỊ EM” vĩnh viễn không có phần và phải quy lụy Bắc Kinh tối đa để duy trì sự vận chuyển dầu hỏa lên Nhật Bản hoặc các nước khác trong vùng.
Điều đó càng cho thấy giới “BẢY CHỊ EM” ta không thể để các phần tử Đảng viên bảo thủ thân TC ở trong Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục mạnh thế khiến những toan tính cam kết đầu tư giữa Việt Nam và giới “BẢY CHỊ EM” bị đe dọa, bất ổn.
Hơn nữa, để đảm bảo quyền lợi lâu dài, “BẢY CHỊ EM” sẽ tìm đủ cách tạo ra cho mình những ảnh huởng chính trị cần thiết trên chính trường Việt Nam nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.
Cho nên, để “BẢY CHỊ EM” có thể yên tâm dò tìm , đầu tư và khai thác dầu hỏa và khí đốt tại thềm lục địa Việt Nam, Cộng Sản Việt Nam cần phải có chính sách chính trị đối ngoại hợp tác với Hoa Kỳ sâu rộng về quốc phòng.
Nếu Đảng Cộng Sản Việt Nam tỏ ra do dự hay sẵn sàng ngả về TC thì giới “BẢY CHỊ EM” sẽ không gia tăng đầu tư vào Việt Nam vì rủi ro (risk) quá lớn trước sự hăm dọa của TC.
Từ đó, mối bang giao Việt- Mỹ chịu ảnh hưởng âm thầm nhưng mạnh mẽ của giới “BẢY CHỊ EM”.
Đơn giản, đầu tư của “BẢY CHỊ EM” sẽ sút giãm nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam nếu Việt Nam không nằm trong đường lối hợp tác quốc phòng mà chính phủ Hoa Kỳ đề ra trong sách lược của mình tại Đông Nam Á.
Như vậy đường lối chính trị ngoại giao của Cộng Sản Việt Nam cũng đang lần hồi bị ảnh hưởng áp lực của giới “BẢY CHỊ EM“.
Ngụy trang bằng lý do quốc phòng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã từ từ xích gần lại Hoa Kỳ để tìm một sự bảo vệ nhằm lợi nhuận từ dầu hỏa được ổn định và gia tăng.
Nếu mất đi gần hoặc hơn 10% tổng giá trị sản phẩm quốc dân – GDP (Gross Domestic Product) từ nguồn lợi tức dầu hỏa và cả khí đốt, chưa kể các quyền lợi về công ăn việc làm, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội do các hoạt động đầu tư của “BẢY CHỊ EM” đem lại thì kinh tế Việt Nam và ngân sách quốc gia của Việt Nam sẽ suy sụp nhanh chóng .
Điều này sẽ đặt Đảng Cộng Sản Việt Nam vào tình thế lâm nguy về an toàn chính trị trước suy thoái kinh tế. Khi nguồn lợi tài chánh từ dầu hỏa mất đi, Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ bị tê liệt về ngân sách, dẫn đến sụp đổ nhanh chóng về chính trị.
Ba đời thủ tướng Cộng Sản Việt Nam, từ Võ Văn Kiệt đến Nguyễn Tấn Dũng điều là người miền Nam và có liên quan trực tiếp đến sự an toàn, tự do khai thác dầu hỏa cho “BẢY CHỊ EM” ngoài khơi lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Bộ luật đầu tư khai thác dầu hỏa được thông qua để BẢY CHỊ EM tư do đấu thầu, khai thác dầu hỏa ban hành vào năm 1993 khi Võ Văn Kiệt là thủ tướng.
Chevron đã vào Việt Nam năm 1994 dưới sự bảo vệ về chính trị của Kiệt để đổi lại những khoảng tài chánh cứu trợ cần thiết cho Việt Nam và Đảng cầm quyền cũng như sự hậu thuẫn của Chevron cho Việt Nam trong chính trường Mỹ.
Sau đây là một đoạn từ lá thơ của Lisa Barry, General Manager Government Affairs (Tổng Giám Đốc Tư Pháp) của Chevron chính thức gởi đến Hạ Viện Hoa Kỳ (House of Representative- H. R.) , áp lực Hạ Viện tiếp tục duy trì quy chế tự do mậu dịch “Permanent Normal Trade Relations“ gọi tắt là PNTR với Việt Nam. PNTR cho phép tự do mậu dịch giữa hai quốc gia Việt- Mỹ được hợp pháp – nguyên văn bằng tiếng Anh:
“Chevron is a long term investor in Viet Nam. We re-entered the Vietnamese market as soon as it was legally permissible following the end of US trade embargo in 1994 and have increased our present since then as opportunities have been available. We are please to support and urge favorable consideration of the last step in the trade normalization process: extending Pernament Normal Trade Relations (PNTR) to Viet Nam as authorized by H.R 5602“
(Xin tạm dịch: Chevron là một công ty đầu tư lâu dài tại Việt Nam. Chúng tôi hiện diện tại Việt Nam ngay sau khi cấm vận được bãi bỏ vào năm 1994 và tiếp tục gia tăng sự hiện diện của mình khi có cơ hội đầu tư. Chúng tôi hết lòng vận động và ủng hộ bước tiến cuối cùng của quá trình bình thuờng hóa: tiếp tục duy trì nghị quyết H.R 5602- Pernament Normal Trade Relations (PNTR), quy chế tự do mậu dịch với Việt Nam)
Đoạn trích trên từ lá thơ của công ty Chevron chính thức gởi đến Hạ Viện Hoa Kỳ là một bằng chứng đã cho thấy rõ ảnh huởng mạnh của giới “ BẢY CHỊ EM” lên mối quan bang giao Việt-Mỹ tác động đến nền chính trị và các quyết định chính trị sau này của Cộng Sản Hà Nội. Xin vào website để đọc hết toàn bộ nguyên văn bức thư bằng Anh ngữ.
Phan Văn Khải cũng là người miền Nam, tiếp nối Võ Văn Kiệt làm thủ tướng từ năm 1997 cho đến 2006, trong thời gian này thì tổng sản lượng dầu hỏa của Việt Nam nhanh chóng nhãy vọt từ dưới 200 ngàn thùng dầu lên gần 400 ngàn thùng dầu mỗi ngày do sự hiện diện mạnh mẽ của giới “BẢY CHỊ EM” dập dìu ngoài khơi Việt Nam (biểu đồ 1)
Trong giai đoạn tăng vọt sản lượng dầu hỏa này, chỉ cần nhìn vào Chevron thì đã thấy cổ phần của Chevron tăng vọt tại các mỏ dầu ngoài khơi Việt Nam:
+ Block 122 – Phu Khanh Basin: Chevron sở hữu 20%,
+ Block B&48/95 – Malay/Tho Chu Basin: Chevron sở hữu lên đến 42.38%
+ Block 52/97- Malay/Tho Chu Basin Chevron sở hữu lên đến 43.40%
Ông Khải cũng được cho là nhờ sự vận động ráo riết của BẢY CHỊ EM để ông trở thành Thủ Tướng Cộng Sản đầu tiên viếng thăm Hoa Kỳ, ký kết hàng loạt các hợp đồng kinh tế, trong đó là chuyến đi thăm ngoạn mục đến nơi sản xuất của một người bạn lâu đời thủy chung của giới “BẢY CHỊ EM“, đó là hãng Boeing.
Nguyễn Tấn Dũng tiếp nối ông Khải làm Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam cũng là người miền Nam, mở rộng cửa cho hàng loạt các tay chân của BẢY CHỊ EM vào Việt Nam, trong đó có các hãng lọc dầu của Pháp, Nam Hàn, Nhật Bản.
Thời của ông Dũng, TC gia tăng sách nhiễu BẢY CHỊ EM ngoài khơi Việt Nam khiến quan hệ hai nước Việt – Mỹ xích gần nhau hơn về quốc phòng dẫn đến hàng loạt các chuyến ngoại giao con thoi Mỹ- Việt . “BẢY CHỊ EM” đang hậu thuẫn mạnh cho chính giới Hoa Kỳ gia tăng hợp tác quốc phòng với Việt Nam. Sự hậu thuẫn này khiến bộ quốc phòng Mỹ lần lượt có những đối sách gia tăng tuần tra hợp tác tại biển Đông để bảo vệ quyền lợi đầu tư của “BẢY CHỊ EM” ngoài khơi Việt Nam.
“BẢY CHỊ EM “ đã âm mưu núp bóng, dựng ra nhiều tập đoàn dầu hỏa cho nhiều quốc gia khác, rồi lôi kéo các tập đoàn này vào Việt Nam, chịu dựng sự xách nhiễu và hăm dọa từ TC buộc lòng chính phủ các quốc gia này lên tiếng phản đối áp lực Trung Quốc, tạo ra một thế cuộc quốc tế hóa vấn đề dầu hỏa tại Biển Đông có lợi cho toàn cầu và đương nhiên, chỉ có hại cho tham vọng riêng tư của TC.
Hệ quả của âm mưu này là Việt Nam có thêm hàng loạt các tập đoàn dầu hỏa từ Thái Lan, Nhật, Úc, Canada, Nam Hàn, Quatar, Kuwait, India… vân vân mà hầu hết điều là con đẻ của “BẢY CHỊ E” ồ ạt vào Việt Nam dưới sự hậu thuẫn của chính phủ các quốc gia này.
Như vậy, TC nếu muốn xách nhiễu hay áp lực cũng mệt mỏi vì có quá nhiều quốc gia liên can, nhiều tập đoàn khác nhau để liên hệ phản đối.
Các nhà phân tích, chiến lược gia đang chờ xem TC sẽ đối phó với âm mưu này của BẢY CHỊ EM như thế nào.
Nền chính trị của Việt Nam độc tài Cộng Sản hôm nay và Tự Do Dân Chủ mai sau luôn luôn sẽ phải chịu những tác động và ảnh huởng mạnh từ “BẢY CHỊ EM”. Đây là một thực tế cần phải chấp nhận khi bàn thảo những đối sách chính trị cho Việt Nam.
III. Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” trong lịch sử của Việt Nam:
Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” lên lịch sử của Việt Nam là điều mà các sử gia vẫn chưa chịu thừa nhận vì ảnh hưởng này không ồn ào lộ ra ngoài cho mọi người nhìn thấy dù ảnh huởng này rất là quan trọng.
Trong quá khứ, Nhật Bản buộc lòng phải tấn công Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) vào ngày 7 tháng 12 năm 1941 vì Hoa Kỳ cấm vận mọi chuyên chở dầu hỏa từ con đường dầu hỏa (đề cập ở phần II bên trên) lên Nhật Bản khiến Nhật Bản sẽ suy xụp tê liệt hoàn toàn về kinh tế nếu không có hành động để tìm một giải pháp.
Hoa Kỳ hành động cấm vận dầu hỏa quyết liệt như vậy đối với Nhật Bản là để trả đũa hành động Nhật Bản tấn công cảng Hải Phòng, lúc bấy giờ còn thuộc Đông Dương- L’indochine do Pháp kiễm soát vào ngày 26 tháng 9 năm 1940.
Nhật Bản tấn công cảng Hải Phòng nhằm cắt đứt đường mua bán, trao đổi tiếp viện xăng dầu đạn dượt cho chính phủ của Tưởng Giới Thạch từ Hoa Kỳ thông qua cảng Hải Phòng và đường rày nối liền Hài Phòng- Hà Nội- Lào Cai- Côn Minh và Vân Nam (Sino- Vietnamese railway).
Như vậy, cuộc đối đầu trực diện nảy lửa giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản về ngoại giao từ năm 1940 dẫn đến đối đầu quân sự trực diện ngay năm sau đó bằng trận tấn công Trân Châu Cảng kinh hoàng bởi Nhật Bản vào ngày 7 tháng 12 năm 1941 tạo ra đệ Nhị Thế Chiến tại Châu Á khởi nguồn từ sự xâm lược của Nhật Bản vào cảng Hải Phòng vào ngày 26 tháng 9 năm 1940.
Trong khi đó, TC đã bị Nhật Bản xâm lược trắng trợn từ năm 1935 nhưng Hoa Kỳ vẫn chỉ phản đối cho có lệ mà thôi, không hề có những hành động cấm vận cương quyết toàn diện đối với Nhật Bản như sau trận tấn công Hải Phòng của Nhật.
Đây là một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng mà các chiến lược gia của Hoa Kỳ cố gắng đánh lờ đi.
Việt Nam lao vào lốc xóay của Đệ Nhị Thế Chiến bởi những tranh chấp dầu hỏa giữa các siêu cường trong vùng.
Quyết định của chính phủ Hoa Kỳ cấm vận Nhật Bản dẫn đến chiến tranh đương nhiên là có sự hậu thuẫn của “BẢY CHỊ EM” vì các đại công ty dầu hỏa lúc bấy giờ không muốn bị Nhật Bản khống chế khi chuyên chở dầu hỏa trong vùng cũng như cắt đứt một khách hàng tiêu thụ xăng dầu khổng lồ của “BẢY CHỊ EM” là Trung Hoa Quốc Dân.
Khi Đệ II thế chiến chấm dứt năm 1945, trợ tá đắc lực của tướng Douglas MacArthur, Thống Đốc Toàn Quyền Nhật Bản là phó thống đốc toàn quyền Laurence Rockefeller, cháu ruột của ông tổ ngành dầu hỏa Hoa Kỳ, John D. Rockefeller, tìm đủ cách tăng viện cho Hồ Chí Minh, mượn tên này gây rối Đông Dương để Hoa Kỳ CÓ CƠ HỘI CAN THIỆP CHÍNH TRỊ VÀO ĐÔNG DƯƠNG mai sau, nhằm có điều kiện kiểm soát dò tìm trữ lượng dầu hỏa và khí đốt tại miền nam duyên hải Việt Nam và lập ra kế hoạch khai thác lâu dài trên biển Đông sau này.
Chín năm sau đó, tức là năm 1954-1955, cũng Laurence Rockefeller, lúc bây giờ là trợ tá đắc lực cho tổng thống Eisenhower, đã cố vấn cho chính phủ Hoa Kỳ, vận động hậu trường chính trị ở Washington DC ủng hộ Diệm truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại nhằm chấm dứt vĩnh viễn ảnh huởng của người Pháp lên Đông Dương, mở rộng cửa cho Hoa Kỳ can dự vào chính trị tại Việt Nam, mở ra cơ hội cho Hoa Kỳ chuẩn bị thăm dò khẳng định trử lượng dầu hỏa của Việt Nam, ngoài khơi Cửu Long Basin và quần đảo Trường Sa.
Vào thập niên 1950, kỹ thuật thăm dò dầu hỏa ngoài khơi của Hoa Kỳ đã rất tiến bộ và chính xác, chỉ cần cho nổ bom hoặc mìn dười lòng biển sâu, rồi đo sự dội lại của âm thanh sẽ biết được chính xác vị trí của salt dome, tức là những bọng muối chứa dầu bên dưới.
Từ năm 1964 trở đi, “BẢY CHỊ EM” ta, nhờ các kế họach quân sự của Hoa Kỳ khi tham chiến tại Việt Nam làm bình phong che đậy, đã có thể âm thầm thực hiện kế hoạch thăm dò mười năm của mình trên toàn bộ vùng biển Đông, biết rõ chính xác và chi tiết trữ lượng cũng như vị trí sự phân bố dầu hỏa trên vùng biển Đông này.
(Nếu không có sự thăm dò này, EIA của Hoa Kỳ làm sao có dữ liệu, data mà thông báo?)
Hiện tại, chưa có một sử gia nào bỏ công nghiên cứu ảnh huởng sâu rộng của “BẢY CHỊ EM ” lên lịch sử của Việt Nam.
Đơn giản là vì, giới “BẢY CHỊ EM” ta không bao giờ lộ diện mà đứng đàng sau các nhân vật chính trị, hoặc vây cánh với các nhân vật chính trị của Hoa Kỳ để ảnh huởng đến các quyết định chính trị sao cho có lợi cho mình và phù hợp với tình thế chính trị toàn cầu.
Hoa Kỳ ảnh huởng sâu rộng đến lịch sử của Việt Nam từ năm 1945 đến nay từ việc đưa Hồ Chí Minh về đảo chánh chính phủ Trần Trọng Kim gây rối Đông Dương, cắt viện trợ chiến tranh cho nước Pháp tại Đông Dương khiến Pháp khốn đốn mà bỏ Đông Dương, rồi đến tham chiến suốt 18 năm, sau lại cấm vận Việt Nam 18 năm và giờ quay trở lại bảo vệ Việt Nam toàn diện từ kinh tế, quốc phòng đến môi trường thì rõ ràng, sự ảnh huởng của “BẢY CHỊ EM”, một thế lực mại bản hàng đầu của nước Mỹ, lên các quyết định của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam, là điều tất nhiên xảy ra.
Chối bỏ vai trò & ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” lên lịch sử của Việt Nam sẽ khiến cho mọi sự nghiên cứu sử học cận và hiện đại của Việt Nam bị khiếm khuyết và lệch lạc đi.
IV. Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” lên kinh tế Việt Nam
Sự hiện diện đầy đủ của “BẢY CHỊ EM” ta tại Việt Nam về lâu về dài đương nhiên tạo ra sức mạnh tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam.
Căn cứ vào dữ kiện của World Bank, thì thu nhập về dầu hỏa của Việt Nam đang từ con số không vào năm 1986 đã lên đến gần 7 % tổng giá trị sản lượng quốc dân GDP vào năm 2012.
Biểu đồ 2: Thu nhập từ dầu hỏa của Việt Nam (%GDP)
Ghi chú: Gạch đỏ ở trên là chỉ dấu mốc năm Hoa Kỳ bải bỏ cấm vận đối với Việt Nam
Trong điều kiện kinh tế lạm phát và tăng trưởng ở mọi quốc gia trên toàn cầu, nhu cầu về năng lượng chỉ gia tăng chứ không có giảm và dù nhiều kỹ thuật tân tiến được áp dung để tránh lệ thuộc vào dầu hỏa, thì dầu hỏa vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu của mọi nền kinh tế. Do đó, về lâu về dài, giá dầu chỉ có xu huớng gia tăng chứ không có giảm.
Biểu đồ lên xuống giá cả của dầu hỏa trong suốt 40 năm tính từ năm 1973 đã cho thấy giá dầu đã tăng từ 16 Mỹ kim một thùng vào năm 1973 lên đến gần 50 Mỹ kim một thùng vào năm 2013. Còn nếu lấy cột mốc là năm 1994 tức là năm khi Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận cho Việt Nam thì giá dầu đã tăng gần 20 Mỹ kim một thùng khiến lợi nhận dầu hỏa của Việt Nam chiếm từ 3% tổng giá trị sản lương quốc dân GDP vào năm 1994 lên gấp đôi trên 6% vào năm 2013
Biểu đồ 3: Biến chuyển giá dầu 1973-2015 ( US dollars / barrel )
Ghi chú: Gạch đỏ ở trên là chỉ dấu mốc năm Hoa Kỳ bải bỏ cấm vận đối với Việt Nam
Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn về trị giá dầu hỏa mà coi đây là nguồn lợi duy nhất mà “BẢY CHỊ EM” có thể đem lại cho nền kinh tế Việt Nam là hoàn toàn sai lầm.
Sự hiện diện của “BẢY CHỊ EM” là cơ hội rất tốt để Việt Nam canh tân cơ sở hạ tầng kinh tế từ kho bãi, cảng, kỹ thuật, nhà máy lọc dầu, các nhà máy sản xuất các hóa chất trọng yếu cho kinh tế quốc gia, kiến thức quản lý. Đó là chưa kể “BẢY CHỊ EM” là nguốn tài trợ vô cùng lớn cho Việt Nam gia tăng khả năng sản xuất điện với kỹ thuật tân tiến, một nhu cầu vô cùng quan trọng cho một xã hội đang phát triển.
Chỉ tính riêng công ty ExxonMobil mà thôi, một khối lượng vốn lên đến 20 tỷ Mỹ kim đã được công ty này loan báo đầu tư vào Việt Nam vào ngày 19 tháng Ba năm 2014 tại Hà Nội không phải để mua dầu mà là để xây nhà máy nhiệt điện sử dung khí đốt khái thác tại biển Đông. Chỉ với 20 tỷ Mỹ kim mà ExonMobil đã là công ty đứng hàng thứ bảy về số vốn đầu tư tại Việt Nam thì rõ ràng, nếu tính sự hiện diện đầy đủ của “BẢY CHỊ EM“, tức là sự hiện diện của mọi tập đoàn dầu hỏa được chính phủ Hoa Kỳ hậu thuẫn thì con số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cho Việt Nam từ các công ty này sẽ vượt qua xa tất cả các công ty không thuộc giới… ”BẢY CHỊ EM“!
Ước đoán số vốn đầu tư của “BẢY CHỊ EM” tại Việt Nam như sau:
1. Chevron: 7 tỷ Mỹ kim cho hai nhà máy điện chạy bằng khí đốt khai thác từ BLOCK B từ Cửu Long Basin, trong đó có tính luôn cả chi phí các ông dẫn khí từ khơi vào đất liền có chiều dài lên đến 400 km. Chevron cũng được cho là sở hữu 42 % số dầu khai thác từ Cửu Long Basin theo các hợp đồng đã ký với Cộng Sản Hà Nội.
2. ExxonMobil: 20 tỷ Mỹ kim cho hai nhà máy nhiệt điện lớn từ khí đốt tại tỉnh Quãng Ngãi. Hợp đồng này khiến Việt Nam có cơ sở hạ tầng tân tiến, cải thiện sức mạnh kinh tế quốc dân.
3. British Petroleum(BP) được cho là bỏ ra 2 tỷ Mỹ kim để thăm dò Block 05-2 tai Nam Côn Sơn, có tin đồn là bỏ của tháo chạy vì bị TC đe dọa và lấy cớ là cần tiền để bồi thuờng vụ rò rỉ (leak) dầu tại Gulf of Mexico nên bán mọi asset tại Việt Nam nhưng nay rõ ràng BP có cổ phần gần như mọi dự án lớn nhỏ về năng lượng của Việt Nam. Hệ thống ống dẫn khí đốt đang hoạt động tại Việt Nam hầu hết là do BP thi công, trừ hệ thống ống dẫn của Chevron.
4. Shell: Được cho là bỏ ra gần 300 triệu để đầu tư sản xuất dầu cơ khí, hay còn gọi là dầu máy hoặc là nhớt máy. Tuy con số tiền đầu tư có vẻ ít nhưng Việt Nam chưa hề tự lực nổi về sản xuất dầu nhớt cơ khí và cần Shell hiện diện để canh tân kỹ thuật và cung ứng cho nhu cầu quan trọng này của xã hội.
5. ConocoPhilipe: công ty dầu hỏa mới thành lập của Hoa Kỳ, được cho là lớn đứng hàng thứ ba trên thế giới trong giới “BẢY CHỊ EM ” ngày nay, nắm 23.25% cổ phần block 15-1 , 36% cổ phần block 15-2; và 16.3 % hệ thống Nam Côn Sơn ống dẫn dầu và khí đốt (Nam Con Son pipeline) .
ConocoPhilipecũng loan báo bán tháo bỏ chạy ra khỏi Việt Nam vì TC đe dọa năm 2012, nhưng nay cũng quay trở lại khi biết chính sách “nhìn về châu Á“ của Obama được thi hành. Tổng trị giá tài sản mà ConocoPhillipe có ở Việt Nam có thể lên đến 5 tỷ Mỹ kim là ít nhất.
6. Korea National Oil Corporation (KNOC): dù mang tiếng là của Nam Hàn nhưng thực chất Chevron đứng đàng sau, theo chân Hoa Kỳ vào Việt Nam, nhận điều hành Block 11-2, tin rằng số vốn cơ sở hạ tầng tại Việt Nam lên đến khoảng 2 tỷ Mỹ kim.
7. Nippon Oil Exploration Limited and Teikoku Oil: xuất thân tự Nhật có 35% cổ phần cho block 05-1 b và 05-1c. Số vốn hạ tầng tại Việt Nam khoảng 4 tỷ Mỹ kim.
Thu nhập ngoại tệ từ dầu hỏa, canh tân cơ sở hạ tầng năng lượng cho nền kinh tế quốc dân như hệ thống ống dẫn dầu hay khí đốt, hệ thống nhà máy nhiệt điện, hệ thống nhà máy chưng cất dầu (oil refinery), nhà máy sản xuất ống dẫn dầu và các thiết bị liên quan, dàn khoan dầu, tàu chở dầu, phi trường, công ăn việc làm, kỹ thuật, vân vân là những quyền lợi kinh tế rất lớn mà giới “BẢY CHỊ EM“ sẽ mang đến cho Việt Nam về lâu về dài, chưa kể hậu thuẫn về an ninh quốc phòng cho Việt Nam trước tham vọng bành trướng của TC.
V. Kết Luận:
“BẢY CHỊ EM” hay còn gọi là Seven Sisters là tiếng lóng để chỉ các tập đoàn dầu hỏa hàng đầu thế giới, hầu hết là được chính phủ Hoa hậu thuẫn đằng sau.
Các công ty dầu hỏa này đang ngày càng có một ảnh hưởng chính trị sâu rộng trong thuợng tầng, lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và sẽ còn tiếp tục ảnh huởng đến nền chính trị của quốc gia chúng ta trong tương lai sau khi cộng sản xụp đổ.
Việt Nam bị lôi cuốn vào đệ nhị thế chiến cũng vì những căng thẳng về dầu hỏa xãy ra giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ do sự cấm vận từ Hoa Kỳ sao khi Nhật Bản tấn công cảng Hải Phòng của Việt Nam thời Đông Dương thuộc Pháp. Hai cuộc chiến tại Việt Nam sau 1945 điều có sự can dự âm thầm của giới “BẢY CHỊ EM” và là cơ hội tốt để giới BẢY CHỊ EM tiến hành thăm dò trử lượng dầu hỏa và khí đốt tại biển Đông. Cho nên, lịch sử của Việt Nam thật sự đã bị ảnh hưởng bởi giới ”BẢY CHỊ EM” mà các sử gia cần thừa nhận và đào sâu thêm.
Ảnh hưởng về kinh tế đối với Việt Nam từ giới “BẢY CHỊ EM” rất lớn. Sự hiện diện của “BẢY CHỊ EM” tại Việt Nam sẽ thúc đẩy Việt Nam canh tân cơ sở hạ tầng và đem đến một tương lai thịnh vượng hơn cho đất nước về đường dài.