Oai Sử “Phạt Tống” của Tiền Nhân – Phạm Đức Duy
938 năm trước, ngày 1 tháng 3 năm 1076, danh tướng nhà Lý của nước Đại Việt ta là Lý Thường Kiệt, một trong những anh hùng tiêu biểu nhất trong lịch sử chống ngoại xâm phương bắc của dân tộc Việt Nam, đã hạ thành Ung Châu (nay là Nam Ninh(1), Quảng Tây) của nhà Tống sau 42 ngày vây hãm.
Thành Ung Châu thất thủ đánh dấu sự thành công trong công cuộc “Phạt Tống” của tổ tiên chúng ta vào năm 1075-1076 dọc theo 3 châu Khâm, Liêm, Ung (thuộc tỉnh Quảng Tây ngày nay) đất nhà Tống Trung Hoa ở biên giới Đại Việt.
Sau khi vua Lý Thái Tổ lập nhà Lý năm 1010, đã dùng chính sách gả các công chúa, công nương cho các thủ lãnh miền núi giáp Trung Hoa để tạo mối quan hệ chặt chẽ, củng cố thế lực và ngấm ngầm bánh trướng lãnh thổ tại vùng biên giới phía bắc. Trải qua 3 triều đại Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, nước Đại Việt ta càng ổn định và vững mạnh hơn.
Trong khi đó, bên Trung Hoa nhà Tống từ khi thành lập vào năm 960 vừa phải đương đầu với những hậu quả từ thời Ngũ đại Thập quốc, vừa đối diện với những nguy cơ uy hiếp từ phía nước Liêu lớn mạnh của người Khiết Đan ở phía bắc. Sang thời Tống Nhân Tông, lại bị thêm sự uy hiếp của nước Tây Hạ phía tây bắc, nên nhà Tống phải cống nộp và bị mất nhiều vùng lãnh thổ cho Liêu và Tây Hạ. Trong triều thêm rối loạn vì những mâu thuẫn giữa phe Tư Mã Quang và phe cải cách Vương An Thạch. Chủ trương nam tiến để giải tỏa các căng thẳng trở thành một chiến lược của nhà Tống.
Để chuẩn bị cho âm mưu xâm lược Đại Việt, năm 1073 vua Tống Thần Tông trước sai Thẩm Khởi sau dùng Lưu Di điểm dân, tích lương, đặt các doanh trại, sửa đường tiếp tế, tăng cường binh lực, đóng chiến thuyền, luyện tập thủy binh và cấm người Đại Việt sang đất Tống buôn bán vì sợ bị do thám. Chẳng bao lâu, Ung Châu trở thành một căn cứ quân sự để đánh Đại Việt do Tô Giám một viên tướng dày dặn kinh nghiệm, chỉ huy.
Tuy nhà Tống cố giữ bí mật, nhưng qua dọ thám, triều đình Đại Việt ta đã nhận ra ý đồ xâm lược và nắm được khá đầy đủ hiện tình của địch tại châu Ung. Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt chủ trương thực hiện đánh phủ đầu và quyết định mở trận tiến công quy mô sang đất Tống.
Đại Việt huy động 10 vạn quân, bao gồm cả quân của triều đình và lực lượng của các thủ lãnh miền núi. Đạo quân của triều đình ở phía Đông do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy, gồm cả thủy lục quân xuất phát từ Móng Cái tiến vào đất Tống nhằm tới châu Khâm. Còn đạo quân của các thủ lĩnh đặt dưới sự chỉ huy của Tông Đản chia làm 4 mũi tiến vào đất Tống nhắm tới châu Ung. Đạo quân phía tây “dương Tây” để đạo quân phía đông của Lý Thường Kiệt bất ngờ “kích Đông”.
Ngày 27 tháng 10 năm 1075, Vi Thủ An, thủ lĩnh miền núi của Đại Việt, dẫn quân từ Tô Mậu chiếm được trại Cổ Vạn. Gần 2 tháng sau, đến tận ngày 21 tháng 12, tin thất trận mới tới được triều đình nhà Tống. Tiếp theo, các mũi quân phía Tây lần lượt đánh chiếm trại Vĩnh Bình, Thái Bình, các châu Tây Bình, châu Lộc, và trại Hoành Sơn.
Quân Tống chú trọng vào chiến sự phía Tây, nên lơ là phòng thủ phía Đông. Khi đạo quân phía Đông của ta đến tập kích, tướng giữ thành là Thừa Chỉ Trần Vĩnh Thái vẫn thản nhiên bày tiệc uống rượu. Quân Tống không chống đỡ nổi. Ngày 30 tháng 12 năm 1075, châu Khâm bị chiếm, Thái và các tướng thủ hạ đều bị bắt và bị giết. Quân Đại Việt không phải giao tranh một trận nào, lấy hết của cải mang đi. Người dân địa phương dù sau này thương Thái bị giết mà lập đền thờ nhưng vẫn chê cười Thái là người ngu muội, nên thấy ai không thông minh thì gọi là ‘Trần Thừa Chỉ’ bởi vì trước khi quân Đại Việt tập kích, đã có người phát hiện và báo cho biết nhưng Thái không tin.
Nghe tin châu Khâm thất thủ, quân Tống ở châu Liêm không chống nổi. Ngày 2 tháng 1 năm 1076, châu Liêm thất thủ. Quan trấn thủ châu Liêm là Lỗ Khánh Tôn, các tướng thủ hạ và thủ lãnh các trại đều bị tử trận. 8,000 quân Tống bị bắt làm tù binh dùng để đưa đồ vật lấy được xuống thuyền.
Sau đó, đại tướng Lý Thường Kiệt cùng các đạo quân phía Tây dẫn quân đến châu Ung.
Trên đường Lý Thường Kiệt kéo quân tiến sâu vào đất Trung Hoa, mặc dù nhà Tống không còn quân đội cản đường, nhưng Lý Tướng quân vẫn lo ngại dân Tống có thể làm trở ngại trên đường về, nên đã soạn “Phạt Tống lộ bộ văn” và sai yết ở dọc đường để phô trương danh nghĩa cuộc bắc phạt của quân Đại Việt, kể tội nhà Tống qua những chính sách hà khắc của triều đình Tống cũng như kích động sự oán hận của dân đối với Tống triều.
Dân Tống đọc bố văn đều vui mừng đồng tình, mang rượu thịt ra khao quân ta. Từ đó mỗi khi dân Tống thấy cờ hiệu Lý Thường Kiệt từ xa đều nói đó là quân của “cha họ Lý người nước Nam” và cùng nhau bày án bái phục trên đường.
Ngày 10 tháng 12, Tông Đản dẫn quân ta đến Ung Châu. Cánh quân Đại Việt chiếm được Liêm Châu tiến sang miền đông bắc chiếm châu Bạch. Hơn nửa tháng sau, triều đình nhà Tống mới hay tin và hết sức bối rối. Rồi nhiều tin các nơi khác bị mất lại được báo về, vua tôi Tống Thần Tông càng hoang mang, ra lệnh cho Quảng Châu, Quảng Tây phải cố thủ các nơi hiểm yếu nhất, vận chuyển tiền, vải, lương thực, và gửi viện binh tới các thành trì đang bị uy hiếp.
Ngày 18 tháng 1 năm 1076, đạo quân của Lý Thường Kiệt tới thành Ung. Mấy vạn quân Đại Việt vây Ung thành chặt chẽ nhiều vòng. Tướng nhà Tống Tô Giám thấy thế quân ta mạnh nên đóng cửa thành cố thủ. Tô Giám ban đầu tin rằng Ung Châu cách Quế Châu chỉ khoảng 14 ngày đường, nên viện binh thế nào cũng đến kịp. Gần 60,000 dân chúng trong thành bấy giờ sợ hãi đạp nhau bỏ chạy. Tô Giám đem tiền quỹ phát hết để khích lệ dân chúng và phao tin viện binh đã tới gần để mọi người vững lòng. Quân, tướng nếu bỏ trốn bị tội theo quân lệnh.
Tướng Tống Trương Thủ Tiết đem quân từ Quế châu đi cứu Ung châu bằng đường vòng tới Tân Châu rồi hạ trại ở Khang Hòa nghe ngóng. Ung Châu bị vây gấp quá, Tô Giám cho người mang thư (viết vào giấy, bọc trong nến, ngậm vào miệng) phá vòng vây, về Quế Châu xin tiếp cứu. Trương Thủ Tiết bị thúc dục, bất đắc dĩ kéo quân rời Khang Hòa, ra giữ ải Côn Lôn giữa châu Tân và châu Ung, cách thành Ung khoảng 40 cây số.
Ngày 11 tháng 2 năm 1076, nhằm ngày 4 tháng Giêng âl, Lý Thường Kiệt dẫn quân kéo thẳng đến ải Côn Lôn đón đánh viện binh, quân Tống hốt hoảng bỏ chạy. Trương Thủ Tiết và các tướng chỉ huy của lực lượng viện binh đều bị tử trận. Rất nhiều quân sĩ Tống đầu hàng quân ta.
Thành Ung châu rất vững chắc. Mấy vạn quân Đại Việt bắc thang mây công phá. Quân Tống dùng đuốc mà đốt nên không thể bắc thang tới gần được. Lý Tướng quân dùng tên độc bắn, người ngựa trên thành chết rất nhiều. Tuy nhiên, quân Tống dùng nỏ bắn ra và vì tường thành cao và chắc, quân ta đánh phá đã gần 40 ngày vẫn chưa hạ được. Sau đó Lý Thường Kiệt được người hiến kế dùng bao đất để chèo vào thành. Quân ta lấy túi cho đất vào, cứ thế đắp vào chân thành. Khi các bao đất cao lên, tướng sĩ theo đó mà leo lên mặt thành tiến đánh.
Ngày 1 tháng 3 năm 1076, sau 42 ngày kháng cự, Ung thành thất thủ. Tô Giám cùng tàn quân chiến đấu đến phút cuối. Kiệt sức, chủ tướng họ Tô tự thiêu. Quân Đại Việt toàn thắng. Quân dân thành Ung chết hơn 5 vạn, quân ta mất 1.5 vạn.
Lấy xong Ung châu, Lý Thường Kiệt kéo quân lên phía bắc, ý muốn chiếm tiếp châu Tân. Tướng Tống giữ Tân châu là Cổ Cắn Lặc mới nghe tin đã sợ hãi bỏ thành. Lý Tướng quân ra lệnh tiêu hủy thành lũy, phá kho tàng dự trữ trong vùng Tả Giang và lấy đá lấp sông chặn đường cứu viện của quân Tống.
Đoán chừng quân Tống tiếp viện từ phương bắc sắp kéo xuống, nếu chúng tiến nhanh có thể sớm đánh vào đất Đại Việt ta. Nhận thấy quân sĩ sau khi công phá Ung châu cũng mệt mỏi, Lý Thường Kiệt quyết định thu quân trở về để phòng thủ. Trong tháng 3 năm 1076, quân Đại Việt rút khỏi đất Tống, kết thúc cuộc chiến Phạt Tống của danh tướng nước Việt Lý Thường Kiệt.(2)
Tổ tiên ta xưa anh hùng như vậy!
Nay đất nước bị cai trị bởi lũ Thái Thú thời đại “hèn với giặc, ác với dân”!
“Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.”
Phạm Đức Duy – 2 tháng 3, 2014
(1): Wikipedia cũng công nhận Nam Ninh là thuộc đất Bách Việt xưa: http://en.wikipedia.org/wiki/Nanning
(2): Chi tiết thời gian và diễn tiến cuộc “Phạt Tống” dựa theo: http://www.wikipedia.org/ và http://www.vietpbn.net