‘Từ Watergate đến sụp đổ Sài Gòn’
Tổng thống Mỹ Richard Nixon rời Nhà trắng sau khi từ chức vì vụ scandal Watergate.
Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng VNCH, gửi cho BBC từ Mỹ – 12:06 GMT – Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014
Trong phần tiếp theo của Bấm bài viết nhìn lại sự kiện Tổng thống Mỹ Richard Nixon từ chức (ngày 8/8/1974), tác giả Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng trưởng Kinh tế của Việt Nam Cộng hòa, đề cập hệ quả vụ scandal chính trị Watergate với sự sụp đổ của chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng thể chế VNCH chưa tới một năm sau.
BBC giới thiệu sau đây phần hai và cũng là phần cuối của bài viết nhân bốn mươi năm xảy ra sự kiện này:
Mấy ngày sau khi nhận được thư của Tổng thống (TT) Gerald Ford, sau một buổi họp của Hội Đồng Tổng Trưởng tại Dinh Độc Lập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bảo tôi ở lại nói chuyện thêm.
Ông hỏi qua loa về cá nhân ông Ford, vì ông này quá mới mẻ đối với VNCH.
Tôi nói với ông Thiệu về cái thông lệ của Hoa Kỳ là một tân Tổng Thống thường được Quốc Hội dành cho một “tuần trăng mật” chỉ dài khoảng 100 ngày, đôi khi lâu hơn.
Trong thời gian này, họ dành mọi sự dễ dàng cho vị tân Tổng Thống. Không những TT Thiệu mà tất cả Nội Các cũng hết sức lo âu.
““Không có nhân vật cao cấp nào trong chính phủ để ý đến vấn đề Việt Nam nữa!” Câu nói của Giáo sư Nutter làm TT Thiệu bỏ dở tô hủ tiếu” – Nguyễn Tiến Hưng
Câu chuyện mọi người bàn bạc lúc ăn trưa trong những buổi họp hàng tháng vào sáng thứ Tư tại Phủ Thủ Tướng cũng đều xoanh quanh Watergate và viện trợ Hoa Kỳ.
Để tìm hiểu rõ hơn về tình hình và xem Việt Nam Cộng Hòa phải xoay xở ra sao, chúng tôi đề nghị Tổng Thống Thiệu mời Giáo sư Warren Nutter sang thăm.
Ông là cựu Phụ tá Tổng Trưởng Quốc Phòng, đặc trách phần tài chính của chương trình Việt Nam Hoá.
Ông cũng là người thầy kính mến của chúng tôi tại Đại Học Virginia. Ông rất am hiểu đường đi nước bước của bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ và vấn đề quân viện.
‘Bỏ dở tô hủ tiếu’
Giáo sư Nutter dự điểm tâm với TT Thiệu và chúng tôi sáng ngày 23 tháng 8 tại Dinh Độc Lập. Tổng Thống Thiệu nói về tình hình đang trở nên hết sức nguy ngập và bày tỏ sự lo ngại về viện trợ Hoa Kỳ.
Là người ủng hộ ông Thiệu từ lâu, ông Nutter cũng rất bối rối. Ông cảm thấy khó khăn khi giải thích hành động của Quốc hội. Ông hứa khi về đến Washington sẽ cố gắng trình lên Tổng Thống Ford tình trạng nguy ngập ở Việt Nam.
TT Thiệu không còn nhận được nhiều viện trợ và hậu thuẫn của người Mỹ vào cuối cuộc chiến.
Ông than phiền: “Không có nhân vật cao cấp nào trong chính phủ để ý đến vấn đề Việt Nam nữa!” Câu nói của GS Nutter làm TT Thiệu bỏ dở tô hủ tiếu.
Về tới Washington, ông viết một lá thư cho bạn ông là John O. Marsh, Phụ Tá của TT Ford. Nutter nhất quyết rằng miền Nam sẽ tồn tại được nếu có phương tiện chống trả các cuộc tấn công của quân đội chính quy Bắc Việt.
Nhưng nếu Hoa Kỳ ngưng viện trợ thì sẽ gây hậu quả trầm trọng cả về vật chất lẫn tinh thần. Nutter viết cho ông Marsh và đưa cho tôi một bản sao:
“Tôi chưa thấy ông Thiệu và các tướng lãnh Việt nam có khí sắc u sầu như vậy bao giờ. Họ sẽ càng mất tinh thần nếu Bắc Việt tiếp tục gây áp lực…
“Tôi tin rằng hành động của Quốc hội và hậu quả tai hại của việc cắt viện trợ là đầu mối của những xáo trộn chính trị và biểu tình trong vài tuần lễ gần đây (tại Sàigòn).
“Tình hình sẽ bất ổn về cả chính trị lẫn quân sự, và mọi sự có thể đổ vỡ nếu không xoay ngược được chiều hướng này. Nếu phải lựa chọn, ta nên viện trợ quân sự trước, rồi kinh tế sau, để đương đầu với những đe dọa quân sự trước mắt…
“Để cho Miền Nam Việt Nam rơi vào đổ vỡ và thảm cảnh chỉ vì hơn kém nửa tỷ đôla sẽ có hậu quả còn sâu xa hơn, đó là sẽ xé nát lương tâm của Hoa Kỳ. Nó sẽ là ngọn gió thổi bay ảnh hưởng của Hoa Kỳ tuy còn mạnh nhưng đang yếu dần trên chính trường quốc tế” – Giáo sư Warren Nutter
“Để cho Miền Nam Việt Nam rơi vào đổ vỡ và thảm cảnh chỉ vì hơn kém nửa tỷ đôla sẽ có hậu quả còn sâu xa hơn, đó là sẽ xé nát lương tâm của Hoa Kỳ. Nó sẽ là ngọn gió thổi bay ảnh hưởng của Hoa Kỳ tuy còn mạnh nhưng đang yếu dần trên chính trường quốc tế.”
Thêm vào đó, Đại sứ Martin cũng cố gắng vận động tại Quốc Hội Hoa Kỳ, nhưng chẳng ai làm được gì vì ông Kissinger đã trở nên một ông Quan Toàn Quyền.
Hoàng hôn nền Cộng Hòa
Cuối Hè vào Thu, chân trời Miền Nam đã tím lại.
Chỉ vài ngày sau khi TT Ford viết bức thư cho TT Thiệu khuyên ông đừng có lo nghĩ gì cả vì “sau cùng VNCH sẽ được đầy đủ cả quân viện lẫn kinh viện,” Ủy Ban Chuẩn Chi Thượng Viện đã cắt thêm nữa: từ mức quân viện cho Tài khóa 1973 là 2.2 tỷ đôla bây giờ cắt xuống còn 700 triệu.
Điều chỉnh theo lạm phát thật cao lúc ấy thì mãi lực của số tiền này chẳng còn bao nhiêu. Thực là tin sét đánh cho Bộ Tổng Tham Mưu VNCH. Đối với TT Thiệu một chút hy vọng khi nhận được thư đầu tiên của vị Tân Tổng thống Mỹ đã tan biến đi như mây khói.
Có những nỗ lực theo chiều hướng khác nhau để tiếp tục hoặc dừng lại tài trợ của Mỹ cho VNCH.
Ngoài chiến trường thì tình hình bắt đầu sôi động, đặc biệt là ở Đức Dục và Thường Đức.
Tới cuối năm 1974 thì đạn dược và xăng nhớt đã cạn kiệt. Theo dự tính của Bộ Tổng Tham Mưu: dự trữ đạn dược tồn kho chỉ còn cung ứng được từ 30 tới 45 ngày.
Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng kết luận rằng “nếu tình hình chiến sự cứ tiếp tục xảy ra theo cùng một nhịp độ thì: “số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng 6, 1975 nếu không nhận được thêm viện trợ.”
Tình hình chiến sự đã tiếp tục xảy ra, lại theo một nhịp độ gia tăng. Không nhận được thêm viện trợ, lại còn bị Quốc Hội biểu quyết cúp hết quân viện, Miền Nam đã sụp đổ trước tháng 6, 1975.
Về Miền Cali
Sau khi từ chức và trao quyền cho TT Ford, trưa ngày 9 tháng 8, 1974 nguyên TT Nixon và gia đình rời cửa trước Tòa Bạch Ốc từ từ đi trên tấm thảm đỏ dài dẫn tới Marine One, chiếc trực thăng của tổng thống.
Sau đây là những dòng cuối cùng của cuốn ‘Nhật Ký Richard Nixon’ – viết về lúc giã từ Thủ đô:
“Tôi bắt tay Jerry (Ford) – Pat ôm Betty (Phu nhân TT Ford) – rồi hôn Julie (con gái) – và tạm biệt David (con trai). Rồi tôi đứng một mình. Lên hết cầu thang, tôi quay mình, nhìn lại một lần cuối…
“Không ai nói năng gì. Cũng chẳng còn hạt nước mắt nào để mà khóc. Tôi ngả đầu vào lưng ghế và nhắm mắt lại. ‘Thật là buồn, thật là buồn’ tôi nghe thấy Pat lẩm bẩm nói bâng quơ” – Nhật ký Richard Nixon
“Tôi giơ tay vẫy chào lần cuối cùng. Tôi vẫn cười. Tôi bước vào trực thăng, cửa đóng lại, chiếc thảm đỏ được cuộn nhanh. Động cơ bắt đầu nổ. Cánh quạt bắt đầu quay. Tiếng động cơ ầm ầm mạnh lên hầu như lấn át cả những suy nghĩ của tôi.
“Bất chợt chiếc trực thăng từ từ bay lên. Những người ở dưới vẫy tay chào. Rồi chúng tôi đổi hướng. Bây giờ thì Tòa Bạch Ốc đã nằm phía sau chúng tôi. Chúng tôi bay thấp và ngang qua Washington Monument. Một lần đổi hướng nữa và Hồ Tidal Basin đã nằm ở dưới. Rồi tới Jefferson Memorial.
“Không ai nói năng gì. Cũng chẳng còn hạt nước mắt nào để mà khóc. Tôi ngả đầu vào lưng ghế và nhắm mắt lại. ‘Thật là buồn, thật là buồn’ tôi nghe thấy Pat lẩm bẩm nói bâng quơ.”
“Sau một lần đổi hướng nữa chúng tôi đã bay về hướng phi trường Andrew, ở đó chiếc Air Force One đã đợi để đưa chúng tôi về California. Tiếng động cơ ầm ầm mạnh lên hầu như lấn át cả những suy nghĩ của tôi.”
Chắc chắn rằng trong những suy nghĩ của TT Nixon về những gì đã xảy ra, ông không khỏi hối hận vì đã sơ xuất để phải chết đuối trong vũng lầy.
Chín tháng sau ngày TT Nixon từ chức, Sài Gòn thất thủ hôm 30/4/1975.
Vào mùa bầu cử 1972, ông đã quá mạnh để thắng nhiệm kỳ hai, không cần phải cho nghe lén ở trụ sở Đảng Dân Chủ.
Thành tích của ông vẻ vang vì mở cửa Bắc Kinh, lại rút hầu hết quân đội Mỹ khỏi Việt Nam. Chương trình Việt Nam Hóa – chứng minh cho ‘Học Thuyết Nixon’ – đang thành công.
‘Từ mảnh băng trên khóa’
Nhìn theo một khía cạnh tâm linh nào đó, ta có thể cho Ngày Song Bát (8 tháng Tám) cũng chỉ là điểm chốt của vận mệnh TT Nixon.
Từ một chuyện nhỏ nhặt đã gây nên thảm cảnh. Một thanh niên người da màu tên là Frank Wills, 24 tuổi, làm nhân viên bảo vệ cho một cao ốc văn phòng tại khuôn viên Watergate.
Đêm ngày 17 tháng 6, 1973, anh thủng thẳng đi quanh tòa nhà để xem xét, bất chợt anh thấy có miếng băng nhỏ dán vào ổ khóa một cánh cửa.
“Ta thử hỏi giả như anh Wills không vòng lại lần thứ hai thì lịch sử đã như thế nào? Vô tình, chỉ trong giây phút anh đã là người khởi sự quá trình dẫn đến ngày Song Bát (8/8). Một quá trình đã chấm dứt sự nghiệp của người Tổng thống lừng danh” – Nguyễn Tiến Hưng
Chẳng nghi ngờ gì, anh lấy tay gỡ miếng băng ra, đóng chặt cửa rồi tiếp tục đi kiểm tra như thường lệ. Ba mươi phút sau anh vòng lại chỗ cũ. Ấy chết, lại có thêm băng dán vào chốt cửa.
Vội vàng, anh chạy lên lobby lấy điện thoại gọi cho cảnh sát Khu Vực II. Cảnh sát ập tới, bắt được năm người trong văn phòng Đảng Dân Chủ đang cài giây nghe lén. Thế là chỉ trong giây phút “Water – gate” đã bắt đầu – cửa đập đã mở ra cho nước lũ tràn xuống.
Ta thử hỏi giả như anh Wills không vòng lại lần thứ hai thì lịch sử đã như thế nào?
Vô tình, chỉ trong giây phút anh đã là người khởi sự quá trình dẫn đến ngày Song Bát. Một quá trình đã chấm dứt sự nghiệp của người Tổng thống lừng danh.
‘Đến con thuyền lênh đênh’
Ông đã đại thắng trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ hai – một đại thắng ‘landslide’ – long trời lở đất. Để rồi đại bại, sụp đổ.
Chẳng bao lâu sau khi Sài Gòn sụp đổ, làn sóng thuyền nhân VN tị nạn bắt đầu bùng nổ trên biển.
TT Nixon đã ra đi và giã từ Thủ đô để trở về miền California, nơi có nắng âm hiền hòa hơn Washington
Chưa tới chín tháng sau ngày Song Bát, Miền Nam Việt Nam cũng sụp đổ theo ông.
Những con thuyền bé nhỏ lênh đênh trên mặt Biển Đông trông giống như những chiếc lá tre trôi dạt dào.
Bao nhiêu người quay lại giã từ Sài Gòn một lần chót.
Mệt lả, họ lẩm bẩm ‘thật là buồn, thật là buồn – It’s so sad, it’s so sad!’
Cũng chẳng còn hạt nước mắt nào để mà khóc. Không có lưng ghế, họ ngả đầu vào nhau, nhắm mắt lại, phó mặc cho số phận.
Với chút may mắn, một số người đã vượt qua được đại dương. Từng đợt rồi lại từng đợt, họ kéo nhau về Miền Cali, nơi có nắng ấm hiền hòa.
Thêm một sự trùng hợp lạ lùng nữa: phần đông lớp người ra đi đầu tiên lại được đưa tới Camp Pendleton, gần ngay khu nhà Casa Pacifica của TT Nixon ở San Clemente. Cả hai đều nằm sát Đường Xuyên Bang – Intertate 5.
Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả, nguyên Tổng trưởng Kế hoạch của Việt Nam Cộng hòa (1973-1975), người đồng thời là tác giả của các cuốn sách “Khi đồng minh tháo chạy” và “Tâm tư Tổng thống Thiệu”.