Việt Nam lệ thuộc kinh tế Trung Quốc – Nguyễn Bá Lộc

Cac Bai Khac

No sub-categories

Việt Nam lệ thuộc kinh tế Trung Quốc – Nguyễn Bá Lộc

Tương quan kinh tế giữa hai nước thường là phức tạp, không đơn thuần chỉ là yếu tố kinh tế. Tình trạng bang giao kinh tế giữa Việt Nam (VN) và Trung quốc (TQ) trong vòng 10 năm trở lại đây trở thành một mối lo lớn cho đất nước. Bởi vì sự liên hệ đó trên căn bản không bình thường và là một đe dọa của âm mưu bá quyền nước lớn. Quyền lợi kinh tế chánh yếu của hai dân tộc bị xem nhẹ hơn quyền lợi của hai đảng. Trong mối tương quan kinh tế giữa hai nước phần thiệt thòi lớn lại là Việt nam. Việt Nam thực sự lệ thuộc kinh tế TQ quá nhiều.

Đặc biệt trong vài năm gần đây TQ đe dọa VN chiếm lấn Hoàng sa và Trường sa của VN. Vụ mới nhứt là vào tháng năm 2014, TQ đặt giàn khoan dầu trên vùng Trường sa thuộc lãnh hải VN. Tình hình căng thẳng đó gây một số phản ứng trong nước, cũng như trên quốc tế. Mặc dù sau hai tháng TQ rút gian khoan vè nước, nhưng âm mưu chiếm biển đông vẫn còn đó. Tình trạng lệ thuộc kinh tế gần như cũ, nếu không có một biến đổi lớn.

Từ khi bang giao lại (1991), VN và TQ xúc tiến nhanh chóng nhiều thương ước và thực hiện nhiều chương trình hợp tác với nhau. Nhứt là từ khi TQ muốn và thực hiện đưọc mộng ước siêu cường kinh tế, khi Liên xô và đông Âu sụp đổ, và khi Hoa kỳ chánh thức bang giao với VN.

Tiến trình hơp tác đó được ký kết qua 58 thỏa ước kinh tế, trong đó có hai lần đặc biệt quan trọng: Vào tháng 7/ 2005 Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký với lãnh đạo TQ nhiều chương trình kinh tế với trị giá 1,071 tỷ mỹ kim (theo Asia Times 21-7-2005). Và thỏa ước ký giữa Hồ cẩm Đào và Nông Đức Mạnh tại Hà nội vào tháng 11/2006 khi dự Hội nghị APEC, với nhiều dự án trị giá 1,6 tỷ mỹ  kim ( trong đó có dự án khai thác bauxite). Cùng những lời cam kết mới gần đây của lãnh đạo VN qua TQ khi Tập cận Bình lên Chủ tịch đảng. Từ đó VN luôn ở trong vòng kiềm tỏa và bức ép của đảng và chánh quyền TQ.

Chúng tôi xin tóm tắt dưới đây diễn biến của mối tương quan kinh tế đó nói lên sự lệ thuộc kinh tế của Việt Nam với TQ.

I. Tương quan kinh tế Việt Nam – Trung quốc

Tình trạng và vấn nạn nầy được cứu xét qua các lãnh vực chánh yếu:

  1. Xuất nhập cảng
  2. Thầu thực hiện các dự án lớn
  3. Viện trợ kinh tế & Đầu tư trực tiếp
  4. Kế họach hợp tác rộng lớn và lâu dài.

1.Tình trạng xuất nhập cảng:

Trong 10 năm đầu sau 1991, giao thương giữa hai nước dù có gia tăng nhưng không đáng kể. Sau đó thì nhịp độ gia tăng rất nhanh, đến 2004, TQ  trở thành một đối tác lớn của VN.  Giao thương hai chiều của hai nước tăng từ 1991 đến 2010 như saư:

Năm:                         1991          2001         2008              2009             2010         2012

Trị giá ( triệu US $)     2             1.500        17.800           21.500          25.000      27.000

Nguồn: Tuần báo Kinh tế Saigon tháng 5/2011

Như vậy chỉ trong 10 năm gần đây trị giá ngoại thưong hai bên tăng 18 lần. Hàng VN qua TQ thì giảm hay tăng không đáng kể, nhưng hàng TQ qua VN thì tăng quá nhanh. Trong đó VN nhập siêu hàng TQ lên rất cao, như các năm:

Năm 2007: 9, tỷ 146 mỹ kim, năm 2011: 11,5 tỷ, năm 2012: 12 tỷ, 2013: 15 tỷ

Nghiã là VN mua hàng của TQ khoảng ba lần TQ mua của VN. Trị gia nhập siêu từ TQ chiếm 80-90 % tổng nhập siêu của VN.

Các món hàng chánh TQ nhập của VN là than đá, cao su, dâù thô, khoáng sản, lâm sản.  Chỉ riêng các món nầy chiếm trên 60 %. Như vậy VN là nơi cung cấp nguyên liệu và năng lượng thô cho nền kỹ nghệ TQ. Từ năm 2001 TQ là nước nhập cảng dầu thô lớn nhứt của VN (theo China Foreign Economic Policy towards Vietnam, Đại học University of Glasgow, UK). VN lấy dầu đổi hàng TQ kể cả lấy dầu lọc rồi. Tình trạng nầy giống như thực dân ngày xưa đi khai thác thuộc địa.

Còn VN thì nhập từ TQ rất nhiều thứ. Nhiều nhứt là phân bón thuốc sát trùng, thức ăn cho gia câm, dầu xăng, ciment, vải, tơ sợi máy móc trang bị, đồ gia dụng đủ thứ, thức ăn, thuốc Bắc.

Riêng về máy móc tăng từ 103,7 triệu mỹ kim (1999) lên 1.200 triệu (2006), tăng hơn 10 lần trong vòng 7 năm. Ví dụ năm 2006 VN chi ra 8,7 tỷ MK để nhập thiết bị cơ khí thì đến năm 2013  con số nầy tăng lên 24, 8 tỷ MK (gấp 3 lần)

Số lượng sắt thép VN cũng nhập từ TQ khá lớn:  42,8 triệu mỹ kim ( 1999) lên 1.296 triệu (2006).

Về nhập hàng trang thiết bị từ TQ đều thực hiện qua công ty quốc doanh của hai nước, (quôc doanh chiếm ưu thế tuyệt đối) .Cho nên việc định giá trên hóa đơn cao hơn nhiều so với giá thực tế là chuyên dễ làm , để rồi chia chác lợi lộc cho cả hai bên mua và bán. Nói chung là hàng TQ giá khá rẽ , phầm chất kém hơn nhiều nước nhưng hơn hàng VN, người tiêu thụ VN ưa thích vì nghèo và chánh quyền VN thì cho vào cách thật rộng rải. Nhưng hàng vào VN ào ạt như vậy gây tai hại cho nền kỹ nghệ non yếu và nông nghiệp của VN cũng như có quá nhiều hàng TQ có nhiều chát độc hại được phát hiện trong nhiều năm nay.

Ngoài ra trong giao thương với TQ , VN bị cái nạn rất lớn khác là hàng lậu từ TQ tràn ngập ở VN với đủ thứ, nhiều nhứt là hàng gia dụng và thực phẩm Tổng số hàng lậu nầy ước tính khoảng 2 tỷ mỹ kim / một năm. Hàng lậu nầy có giá khá rẽ (vì không đóng thuế) nên có số lượng hàng tiêu thụ lớn. Mặt khác, thương gia TQ qua VN gần như không có phép tắc nào cả. Cho nên hàng hóa qua lại gần như công khai. Khắp các miền đất nước nơi nào cũng có hàng hóa TQ với giá rẽ. Nhưng trong đó có nhiều loại hàng giả và hàng dộc hại. Trong vài năm gần đây người dân trong nứớc thấy được sự nguy hại nầy nên rất dè dặt mua hàng TQ.

Mặt khác thương gia TQ qua VN mua rất nhiều thứ nông sản hải sản với giá rất cao lúc đầu để nông dân thấy lợi trước mắt trồng trọt nhiều, sau đó thương gia TQ ngưng mua hay ép giá xuống. Nhà nông VN điêu đứng.

2.      Thầu xây dụng những công trình lớn

Trong khoảng 6 năm trở lại đây, TQ tiến thêm một bước khác khá nhanh là “trúng thầu” một số dự án công trình hay kỹ nghệ lớn , mỗi dự án trị giá hàng trăm triệu mỹ kim.Nói là trúng thầu nhưng thực sự là TQ ép VN giao cho các dự án lớn, trong khi các công ty rất tốt của những nước khác không đấu lại. Chánh quyền VN thì nói sở dĩ TQ được nhiều là do họ bỏ thầu với giá rẽ.Nhưng như chúng ta biết khoa học kỹ thuật TQ hãy còn yếu nên tất cả các dự án thực hiện rất châm trể hay phẩm chất rất kém.Bỏ thầu rẽ để “trúng thầu”, rồi sau đó xin nâng giá thầu lên trung bình 30%.Cũng theo con số từ cơ quan thẩm quyền VN thì 90% dự án trong điểm đều lọt vào tay thầu TQ.

Một số dự án lớn mà TQ đã trúng thầu có thể kể ra như sau:

  • Dự án xây nhà máy chế biến quặng nhôm (bauxite) ở Tân rai, thuộc tỉnh Lâm đồng và ở Gia nghĩa, tỉnh Dak Nông.

TQ trúng thầu hai dự án nầy lên tới 980 triệu mỹ kim vào năm 2008. Điều làm cho nhiều ngườì ngạc nhiên là công ty quốc doanh trúng thầu của TQ Chalieco, trình độ công ty nầy rất kém so với nhiều công ty lớn và nổi tiếng của Mỹ, Anh, Uc mà bị rớt thầu. Trong gói thầu nầy TQ đem qua bán cho VN phần lớn máy móc trang bị cũ bị phế bỏ, nay đem qua VN. Công ty trúng thầu chỉ mua một số ít máy móc tối tân của Nhựt để che mắt.

  • Cung cấp tàu bè và trang thiết bị cho Tập đoàn kinh tế Vinashin. Chúng ta có biết tập đoàn Vinashin bị lỗ lã đến 4,2 tỷ mỹ kim, gần như phá sản vào năm 2010 chỉ sau có 4 năm hoạt động.. Tập đoàn tàu biển Vinalines cũng lỗ vai tỷ mỹ kim. Qua điều tra sơ khởi Vinashin và Vianalines đã mua của TQ nhiếu tàu cũ trị giá hàng trăm triệu mỹ kim, về sửa chửa lại và chỉ sau khi sử dung chưa được một năm bị nằm ụ.
  • Xây cất các nhà máy điện và hạ tầng cơ sở.  Từ mấy năm qua, Tổng công ty Điện lực VN (EVN) đã cho TQ trúng nhiều thầu dự án to lớn xây cất một số nhà máy điện

–          Xây nhà máy điện Trà Vinh ( Duyên hải 3): Chủ đầu tư dự án là Tổng công ty điện lực VN đã thuận ngày 5 tháng 8 –2011 cho Trung quốc trúng thầu xây nhà máy điện cho vùng duyên hải, đặt tại Trà vinh. Trị giá món thầu nầy tới 1,3 tỷ mỹ kim.( theo Bản tin của Reuter ).

TQ cho VN vay 85% số vố đầu tư dự án nói trên, và 20% do EVN cung ứng.

–          Xây nhà máy nhiệt điện Duyên hải 1: Nhà máy nầy cũng do TQ trúng thầu và bắt đầu xây dựng từ tháng 9 – 2010. Trị giá công trình nầy lên tới 5 tỷ mỹ kim. Chủ đầu tư là EVN và công ty trúng thầu là Tập đoàn Đông Phương của TQ.

Có tất cả 5 nhà máy nhiệt điện và thủy điện đều do TQ trúng thầu hết. Nhà thầu TQ rất chậm trể trong việc hoàn thành các nhà máy điện từ một đến 3 năm (theo báo Saigon Tiếp Thị 17-11-2010). Thông thường là xin tăng giá lên, củng như xử dụng  máy móc xấu cũ kỹ.

Dù có bê bối như vậy nhưng TQ vẫn được trúng thầu tiếp chẳng những về điện lực mà còn nhiều dự án xây cất đường xá , cầu cống , bến cảng…Ví dụ: TQ trúng thầu xây dụng xa lộ Long thành – Dầu giây ( 51 km) trị giá 800 triệu mỹ kim (2013).

Trong các dự án đầu tư của TQ tại VN, các công ty TQ mang theo rất nhiều công nhân mà đa số không có tay nghề chuyên môn. Điều nầy sai luật đầu tư ngọại quốc của VN , theo luật VN chỉ cho phép các công ty ngoại quốc được đem qua nhân viên chuyên môn mà thôi.Theo báo cáo của Bộ Lao động thì có tới 74.000 công nhân TQ đang làm việc tại VN (2010) càng ngày số công nhân càng tăng thêm. Trong đó có rất ít người có chuyên môn, điều nầy sai nguyên tắc và luật lệ VN.

3.      Viện trợ kinh tế của TQ và đầu tư trực tiếp

Một trong những cách mà TQ muốn dụ dỗ các nước nghèo là cho các nước nầy vay với lãi xuất nhẹ. Có nhiều trường hợp cho vay không lấy lời. Nhu cầu vay mượn của VN rất lớn (Vì vay được nhiều thì mới có nhiều dự án, có nhiều dự án thì mới có tham nhũng nhiều). Cái may của VN là trong hơn chục năm qua được nhiều định chế tài chánh quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Á châu, Quỹ tiền tệ thế giới cùng một số quôc gia cung cấp cho một số viện trợ kinh tế khá lớn ( từ 4-6  tỷ mỹ kim / năm). Cho nên VN chưa phải năn nĩ xin viện trợ TQ nhiều. Trong năm 2000 TQ cho VN vay lập nhà máy thép Thái nguyên 55,2 triệu mỹ kim và nhà máy phân bón Hà Bác 32,38 triệu mỹ kim. Các món tiền nầy không phải hoàn trả. Năm 2007, TQ cho vay 2,6 tỷ mỹ kim lập công ty điện thoại.

Cũng như các cường quốc kinh tế khác, TQ có quỷ viện trợ cho thế giới rất lớn. Thông thường lúc nào và ở đâu viện trợ luôn có điều kiện, nhứt là điều kiện về chánh trị.

Trong 10 năm nay viện trợ quốc tế cấp nhiều cho VN là vì VN đã thay đổi chánh sách kinh tế cam đoan theo nền kinh tế thị trường. Đối với TQ thì điều nầy không quan trọng vì VN đi theo những nét chánh, bài bản và mánh khoé của TQ. Cái mà TQ muốn áp đảo kinh tế VN là muốn VN (Cộng sản) luôn là tay sai của bá quyền kinh tế TQ và VN là nơi thuãn tiện nhứt để khai thác tài nguyên kinh tế phong phú của VN. Đồng thời đây cũng là thị trường VN khá lớn và dân nghèo cho nên TQ có thể đem bán rất nhiều thứ hàng với giá rẽ ngườI tiệu thụ VN không ngần ngạI mua. Còn trong lảnh vực công nghệ , nhứt là quốc doanh,, TQ cho VN vay không lờI một số viện trợ lớn nhưng buộc phải mua hàng hoá máy móc của TQ..

Về đầu tư trực tiếp của TQ tại VN cho tới giờ hảy còn yếu, nhưng có đà gia tăng. Nhìn chung đầu tư trực tiếp của TQ ở VN, rất khác các nhà đầu tư trực tiếp đến từ các nước khác như Nhựt, Nam Han, Pháp, Hoa kỳ. Những công ty đầu tư TQ hầu hết là quốc doanh, mục đích là khai thác tài nguyên .

Đầu tư trực tiếp của TQ tại VN

Năm                             1998                   2004                     2006                    2008

Số dự án                          61                      391                        71                       628

Trị giá (triệu US$)         220                    774,9                     401,3                  2.198

Nguồn: Tổng cục Thống kê VN

TQ sẽ đẩy mạnh đầu tư trực tiếp tại VN về khai thác khoáng sản, xăng dầu, lâm sản và ngay cả các đại siệu thị từ 2004 dến nay TQ gia tăng nhanh dự án đầu tư trực tiếp tại VN từ 2005 đến nay. Đến 2010 tổng số đầu tư củ TQ là $2.73 tỷ vớI 661 dự án. Đến cuốI 2013 TQ chiếm hạng thứ 9 trên các nước đầu tư trực tiếp tại VN vớI 1029 dự án trị giá $7,8 tỷ mỹ kim.

TQ coi việc mở rộng đầu tư trực tiếp là cách lấn chiếm kinh tế và chuyển công nhân thường qua định cư.

Họ xây dựng các khu “China town” như ở Bình dương hiện nay. Dần dần như là đợt di dân âm thầm ngụy tạo dưới danh nghĩa làm ăn. Chẳng những VN mất thâm quyền lảnh thổ mà còn nhận sự nguy hiểm về an ninh.

4.      Kế họach họp tác rộng lớn và lâu dài.

Kể từ khi nối lại bang giao (1991), hai đảng và chánh quyền hai nước VN và TQ rất gần gũi, chia sẽ quyền lợi và cộng tác càng ngày càng chặc chẻ. VN luôn luôn bị ép, không cưởng lại nổi áp lực TQ. VN đã trở thành một chư hậu, một loại lệ thuộc của một loại thực dân mới.

Trong chiến lược bá quyền kinh tế, VN được TQ coi như là đàn em ưu tiên. CSTQ có những tham vọng và âm mưu với CSVN trong cái gọi là “hợp tác toàn diện”

Những mục tiêu và kế hoạch mà TQ đang và nhắm tới trong một số kế họach rộng lớn có thể kể:

*Khai thác khoáng sản của VN. Sau khi giao hai nhà máy chế biến, có lẽ xong vào năm tới khi thầu thì nói năm nay xong, TQ sẽ trực tiếp trong giai đoạn kế là chế biến và nhập nhôm về TQ mà hiện TQ thiếu nguyên liệu nầu. Sau đó TQ sẽ khai thác nhiều loại khoáng sản quan trong của VN, mà kỹ nghệ TQ rất cần, và VN có như sắt, than, và kể cả “đất hiếm” mà trong vòng 10 năm qua TQ đi khai thác khắp thế giới. Sự khai thác khoáng sản của TQ đưa đaến các hậu quả tại hai như: Năng suất kém vì kỹ thuật và máy móc của TQ kém so với nhiều nước khác, Tạo ra môi trường sống tệ hạivà giá mua của TQ thấp.

*Khai thác lâm sản. VN có nhiều rừng ở miền Bắc cũng như miền Trung. TQ đã và sẽ nhắm tới. Hoặc dưới hình thức thu mua lâm sản hoặc dưới hình thức thuê đất rừng rẽ để rồng một số loại cây rừng. Chương trình nấy có phần nguy hiểm cho an ninh quốc gia. Công nhân và cán bộ TQ đến đông đảo ở lẫn lộn trong dân, nhứt là dân thiểu số, sẽ dụ dỗ tiến tới khu tự trị.

*Khai thác tài nguyên dưới biển Vùng biên Đông rộng lớn và có nhiều đảo thuộc chủ quyền nhiều quốc gia đã và đang tranh chấp ác liệt.Như chúng ta biết sự tranh chấp rất phức tạp và có tính cách quốc tế. TQ quốc muốn chiếm phần lớn dầu và hải sản trong vùng nầy. Theo tin tức có được thì tiềm năng dầu khí ứoc lượng ở đây rất lớn.Tranh chấp gần đây trở nên gây cấn vì TQ đưa ra bản đồ vùng biển thuộc TQ rất lớn, rất vô lý, không có căn cứ pháp lý. Nhưt là vùng Trường sa và Hoàng sa của VN. TQ dựa vào công hàm 1958 mà cựu Thủ tướng Phạm văn Đồng ,VN DCCH thừa nhận vùng lảnh hải mà TQ tuyên bố vùng biển rất rộng lớn thuộc chủ quyền TQ trong đó Trường sa và Hoàng sa..Lúc đó Trường sa và Hoàng sa nằm trong lảnh hải VNCH.

.Mới đây, tháng 5– 2014, TQ đem giàn khoan qua khu vực Hoàng sa thuôc VN. Đây là sự vi phạm trắng trợn của TQ. Dân chúng VN biều tình rần rộ và đập phá một số nhà máy TQ ở Bình duơng và những nơi khá từ 13 tháng năm/ 2014. Vấn đề trở nên hết sức gay go và phức tạp.Nhiều nước ủng hộ VN phản đối TQ. TQ đang đe dọa VN. Cũng như trước kia TQ đe dọa công ty tìm kiếm dầu lửa của Mỹ, Úc, Ấn dộ đã có hợp đồng khai thác dầu với VN. Tình trạng TQ muốn làm chủ vùng biển nầy đã khiến Hoa kỳ can thiệp vào, vì đây là vùng có nhiều dầu mà còn là con đường biển qua đại dương rất quan trọng. Hoa kỳ đã khẳng định không thể bỏ vùng nầy.  Nhưng CSVN trong điều kiện chủ quan và khách quan khó thoát khỏi gọng kềm của TQ trừ trường hợp có sự thay đổi rất quan trọng về chánh trị. Nhưng vào giữa tháng 7/2014 TQ rút giàn khoan 981 ra khỏi khu vực Hoang sa của VN. Ai cũng nghĩ CSVN trao đổi vụ nầy vớiTQ và phải nhận chịu một sự thiệt thòi mới.

Ngoài dầu lửa, vùng nầy còn là ngư trường khá, nên có nhiều đụng chạm vì tranh giành đánh cá. TQ đã nhiều lần bắt ngư dân VN cách ngang nhiên và sai luật.

*Dự án xa lộ Đông Nam Á   TQ chủ đạo kế hoạch xây xa lộ qua các nước từ Malaysia, Thai lan, Cambodia, Lào và Việt nam đến TQ tạo một vành đai lớn có lợi cho TQ nhiều hơn.

  • Dự án Hành lang kinh tế (HLKT) Việt- Trung: Hai chánh quyền TQ và VN ký thỏa hiệp xây dựng HLKT vào năm 2007. Đây là một trong những dự án hổn hợp qui mô trên thế giới. Vốn đầu tư 4 tỷ mỹ kim. Trong đó ngân hàng Phát triển Á châu tài trợ hai tỷ. Trong đó nhiều dự án nhỏ phát triển hai bên biên giới VN và TQ. Phía TQ điểm xuất phát chánh là Côn Minh, thủ phủ tình Van Nam. Phía VN chạy ngang qua 6 tỉnh và gồm cả thủ đô Hà nội và cảng Hải phòng. Những công trình gồm: Xa lộ, đường xe lửa, khu công nghiệp, các khu thường mại, cảng phi trường, lâm nghiệp, huấn luyện nông nghiệp. Cho tới nay có một phần lớn dự án đã hoàn tất như: Đường xe lửa Côn Minh – Hai phòng đã canh tân xong. Xa lộ Quảng tây – Hà nội dài 1300 km khánh thành tháng 10- 2012. Mậu dịch hai bên biên giới gia tăng hơn. Theo ước ước lượng tổng trị giá hàng qua lại vào khỏang 4,2 tỷ mỹ kim , chưa kể hàng lậu độ 2 tỳ.

HLKT Việt Trung có lơị cho TQ nhiều thứ: kinh tế, giao thông, nhứt là xử dụng cảng Hả i phòng tiện lợi cho vùng Tây nam TQ. Chuển hàng xuất nhập cảng ra ngoại quốc. Nhung loi quan trọng hơn cả là về an ninh, TQ có thể xử dụng HLKT cho việc tấn công VN và một số nuớc khác.

  • Tiếp tục thầu lớn xây dựng hạ tng. VN có nhu cầu lớn xây dựng hạ tầng cơ sở, cầu cống, cảng. Nhu cầu nầy còn nhiều trong tương lai.Một phần lớn viện trợ quốc tế đổ vô xây dụng hạ tầng. Và cũng phần lớn các dự án xây dựng lọt vào tay TQ một cách không chánh đáng và nguy hiểm.

 

II. Vàì suy nghĩ về mô hình kinh tế lệ thuộc ngoai bang

Phát triển kinh tế là một mục tiêu quan trọng của phát triển quốc gia để đất nươc thoát khỏ sự nghèo nàn , lạc hậu, nhứt là sau cuộc chiến lâu dài như Việt Nam.

Nhưng câu hỏi đặt ra cho những nhà chiến lược kinh tế là làm sao nâng đời sống người dân cao hơn, nhưng đồng thờì không phải bị lệ thuộc ngoại bang qua đáng và tai haị.

Dây là vấn đề lớn nhưng không dễ dàng giải quyết, nhứt là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu trong vài thập niên qua.và hiện nay.

Nhìn lại qúa trình tương quan kinh tế VN- TQ trong hơn hai thập niên qua, ai cũng dau buồn và lo ngại, vì đó là sự tương bất bình đẳng và tai hại của một nước nhỏ tự hiến mình, tự trói tay mình, để nhận chịu sự lệ thuộcchỉ vì quyền lợi của đảng và của các nhà lảng đạo CS.

Qua mô hình và sự kiện đặc biệt trên, chúng tôi có vài suy nghĩ xin được nêu ra đây.

1.      Việt Nam có thể có nền kinh tế tự túc tự cường được không?

Nền kinh tế túc tự cường là một mô hình kinh tế chủ yếy lấy sức mình là chánh để phát triển kinh tế quốc dân. Tuy nhiên trong hoàn cảnh và điều kiện hiện nay không thể có con đường kinh tế hoàn toàn độc lập và tự túc được trên bình diện song phương hay đa phương. Hầu hết các chiến lược gia kinh tế đều chống lạI chánh sách kinh tế tự túc (Self-sufficient economy) vì nó giới hạn sự phát triển.Song một sách lược kinh tế lệ thuộc quá đáng và mù quáng , thiển cận sẽ có rất nhiều tai hai hơn là cái lợi. Nhứt là VN có một số điều kiện thuận lợi cần thiết cho một mô hình tự túc, tự cường. Và VN cần có sự dung hòa. Vừa cần phải đặt quyền lợi Dân tộc lên trên hết, vừa phải hội nhập vào Cộng đồng thế giới.

a./ Khai thác tốt tiềm năng kinh tế

VN có tiềm năng kinh tế khá , và tố hơn các nước đã đạt mức phát triển rất tốt như Nhựt bản, Đài loan, Đại Hàn, Malaysia, thì việc đưa nền kinh tế phát triển bền vững và tự cường không là vấn đề, nếu có một Chánh quyền tốt và vì dân.

Tiềm năng hưu ích để phát triển kinh tế chúng ta có thâý được trong mức độ khá lớn: đầu lử khí đốt, haỉ sản, lâm sản, luá gạo. khoáng sản. Dân số trên 80 triệu là thị trường đáng kể và nguồn cung cấp nhân công rẽ và giáo dục căn bản. Đặc biệt là vị trí địa dư rất tốt cho sự phân phối và dự trử hàng hoa cho vùng Đông Nam Á.

Dướ chế độ XHCN các tiềm năng kinh tế trên đã bị tàn phá hay xử dụng kém hiệu năng. Cho nên nền kinh tế không phát triển tốt được.

b./ Thuận lợi và bất lợi của sự Hội nhập toàn cầu

Trong khung cảnh kinh tế thế giới ngày nay, tự túc kinh tế đuợc hiểu là tự lực sử dụng tài nguyên kinh tế , tự lực khai thác các ưu điểm của mình và hợp tác có chọn lọc trên bình diện quốc tế. Mục tieu chánh của các tổ chức quốc tế về kinh tế và mậu dịch là tự do canh tranh, là giải tỏa các loại hàng rào ngăn cản để giá cả rẽ hơn, và hàng hóa luân lưu tiêu thụ nhiều hon.Cái lợi cụ thể là các thành viên của cơ quan Mậu dịch thế giới (WTO) đều có xuất cảng gia tăng và do đó kinh tế phát triên mạnh hơn. Cái bất lợi cho một số thành viên nầy là nếu không khéo điều hành thì giá thành cao sẽ khó cạnh tranh, hay một số nước nông nghiệp nhỏ bị nuớc lớn lấn ép về giá cả.

2.      Sự lệ thuộc kinh tế TQ hiện nay có những hậu quả nào?

Thông thường một nền kinh tế lệ thuộc là không tốt. Sự lệ thuộc kinh tế của VN đốI vớI TQ là một môt khó khăn rất lớn. Đó là sự lệ thuộc có tính cách “tự hiến dâng”, “cưỡng ép” và “ lưỡng lợi” nếu nhìn từ hai đảng và hai chánh quyền.

Tình trạng lệ thuộc kinh tế TQ đem đến các hệ quả và hậu quả rất bất lợi cho VN. Sự lệ thuộc kinh tế TQ còn tùy thuộc mối tương quan chánh trị và ngoại giao giữa hai nước. Đó là diễn biến se xảy ra trong các trường hợp: TQ và VN vẫn giữ gần như nguyên trang, trường hợp có sự cưởng bức mạnh hơn vế phía TQ và sự chống đở về phía VN, trường hợp có sự bùng nổ lớn và chiến tranh cực bộ xảy ra. Trong bài nầy xin chỉ nói một vài nhận xét dựa trên quá khứ và sự thay đổi không quan trọng trong tương lai giữa hai nước.Các bất lợi trên xảy ra:

  1. Trong đoản kỳ
  2. Trong trường kỳ

a/ Trong đoản kỳ:

  • Về thương mại: VN lệ thuộc rất lớn về hàng gia dụng và tiêu thụ (gần 70-80% hàng gia dụng, kể cả thức ăn, thuốc Bắc. Mạt khác hàng nông sản, thủy sản bán qua TQ cũng bị ảnh hưởng không ít.
  • *Về kỹ nghệ: Kỹ nghệ VN còn quá yếy mà lại bỉ lệ thuộc nhiều ở TQ về nguyên liệu (nhứt là vải và tơ sơi chiếm 70-80%), kế là máy móc trang bị cho khu vực tư doanh lẫn quốc doanh.
  • Về nông nghiệp: Gần 90% phân bón, thuốc sát trùng nhập từ TQ. Phần lớn thức ăn gia sức gia cấm, giống cây.
  • Về thầu xây dựng và đầu tư trực tiếp: TQ trúng thầu tới 90% công trình xây dựng hạ tầng và điện lực. Một số dự án đang dang dở Phần lớn dữ án nầy do TQ tài trợ, nên nếuTQ xiết chặc lại thì nhiều công trình bị trở ngại.
  • Du lịch cũng bị ảnh hưởng vì người Tàu qua VN rất nhiều.

Tóm lại trong đoản kỳ thì kinh tế VN bị khó khăn nhiều nếu TQ có chánh sách ép kinh tế VN hơn nữa.

b./ Trong trường kỳ: Có hai vấn đề được nêu ra: Tương quan giữa TQ và VN xấu đi. Và sự thức tỉnh của chánh quyền VN dần dần bớt lệ thuộc kinh tế TQ.

Khi đó TQ sẽ dùng nhiều đòn kinh tế là cho kinh tế VN kiệt quệ hơn.Mặt khác dùng tiển và thế lực kinh tế khác để dụ lảnh đạo đảng và chánh quyền VN Trong tinh thần sợ hải, lòng tòng phục cố hữu của đảng CSVN, lòng tham cá nhân, họ có thể ngượng bộ hơn nữa VN sẽ mất thêm quyền lợ kinh tế trên đất liền và trên biển.

Trong trường kỳ có thể có giả thuyết thứ hai CSVN nghiên về phía Mỹ và Tây phưong nhiều hơn. Nhận chịu một số điểu kiện để được viện trơ nhiều hơn. Nền kinh tế sẽ bớt lệ thuộc TQ mà vẫn ôn định được. Điều nầy ít có hy vọng, nếu không có áp lực dân chúng và quốc tế mạnh hơn.

Với phần tóm lược trên đây chúng tôi muốn đóng góp số dữ kiện kinh tế trong mối bang giao và cấu kết giửa hai nước Cộng sản trong hơn hai thập niên qua. Sự xâm chiếm kinh tế của TQ rất đáng lo ngại vì nằm trong bá quyền của một cường quốc gian ác và một bên là đàn em vừa sợ vừa không dám làm phật lòng đại ca, vừa có nhiều quyền lợi riêng tư trong bang giao nầy.

Xâm chiếm kinh tế tự nó là sự áp đảo, sự cưởng đoạt. Lê thuộc kinh tế tự nó là một ràng buộc là một giới hạn, nếu quá đáng nó là cái tròng khó thoát ra, không phải của chánh quyền liện hệ mà là cái nạn chung của cả Dân tộc.

Cali, tháng 5- 2014

Nguyễn Bá Lộc