Trung Quốc tăng cường đe dọa tấn công hạt nhân ở Biển Đông
Các tàu ngầm hạt nhân tuần tra 24/24 với tên lửa tầm xa mới có khả năng tấn công đất liền Hoa Kỳ làm tăng nguy cơ trên tuyến đường thủy đang tranh chấp
Bởi GABRIEL HONRADA – NGÀY 5 THÁNG 4 NĂM 2023
Bấm để chia sẻ trên WhatsApp (Mở trong cửa sổ mới) Bấm để chia sẻ trên Facebook (Mở trong cửa sổ mới) Bấm để chia sẻ trên Twitter (Mở trong cửa sổ mới) Bấm để chia sẻ trên LinkedIn (Mở trong cửa sổ mới) Bấm để chia sẻ trên Reddit ( Mở trong cửa sổ mới)Nhấn để chia sẻ trên Pocket (Mở trong cửa sổ mới)Nhấn để chia sẻ trên Tumblr (Mở trong cửa sổ mới)Nhấn để gửi liên kết qua email cho bạn bè (Mở trong cửa sổ mới)Nhấn để in (Mở trong cửa sổ mới)
Tàu ngầm tên lửa đạn đạo lớp Jin chạy bằng năng lượng hạt nhân Type 094A của Trung Quốc tham gia một màn trình diễn quân sự ở Biển Đông. Ảnh: Tài liệu phát tay
Các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) của Trung Quốc hiện đang lảng vảng suốt ngày đêm trên Biển Đông, đảm bảo khả năng tấn công lần hai chống lại các lực lượng của Mỹ và đồng minh trong trường hợp Đài Loan xảy ra sự cố bất ngờ.
Tuần này, Reuters đưa tin rằng Trung Quốc hiện đang duy trì ít nhất một tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) trên biển mọi lúc, có khả năng kéo dài hệ thống phòng thủ của Mỹ, khiến nhiều mục tiêu gặp rủi ro hơn và gây áp lực buộc Mỹ và các đồng minh phải phát triển các năng lực mới. để chống lại mối đe dọa.
Sáu chiếc SSBN Type 094 của Trung Quốc hiện đang thực hiện các cuộc tuần tra gần như liên tục từ Hải Nam đến Biển Đông và được cho là được trang bị một tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) tầm xa mới có thể tấn công đất liền Hoa Kỳ.
Báo cáo của Reuters lưu ý rằng tên lửa mới này được cho là JL-3, được cho là có tầm bắn 10.000 km và cho phép Trung Quốc tấn công lục địa Mỹ từ các pháo đài được bảo vệ ở Biển Đông.
Trước đây, các tàu SSBN Type 094 của Trung Quốc, được trang bị tên lửa SLBM JL-2, cần phóng từ Tây Thái Bình Dương và phía đông Hawaii để tấn công đất liền Hoa Kỳ. Điều đó đòi hỏi phải đi qua các nút thắt trên biển như Eo biển Miyako, Kênh Bashi và Biển Sulu, khiến các SSBN dễ bị lực lượng hải quân Mỹ và đồng minh đánh chặn.
Reuters đề cập rằng diễn biến mới này cho thấy sự cải thiện nhanh chóng của Trung Quốc trong lĩnh vực hậu cần, chỉ huy và kiểm soát cũng như vũ khí để duy trì khả năng răn đe hạt nhân trên biển. Báo cáo cũng cho biết Trung Quốc đang bắt đầu triển khai SSBN tương tự như cách các cường quốc hạt nhân như Mỹ, Anh, Pháp và Nga đã làm.
Reuters cho biết sự phát triển này sẽ đòi hỏi các tàu ngầm tấn công hạt nhân (SSN) của Hoa Kỳ phải theo dõi các SSBN của Trung Quốc, kéo dài kho tàu ngầm vốn đã hạn chế và khả năng đóng tàu đang căng thẳng trong khi có nguy cơ leo thang hạt nhân.
Tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân Type 094A của Trung Quốc. Ảnh: Twitter / The National Interest
Tháng 2 này, Asia Times lưu ý rằng mỗi trong số 13 nhà máy đóng tàu hải quân của Trung Quốc có công suất lớn hơn tất cả 7 nhà máy đóng tàu hải quân của Hoa Kỳ cộng lại, khiến Hoa Kỳ dường như thua cuộc trước khả năng đóng tàu đang lên của Trung Quốc. Việc cắt giảm ngân sách và các vấn đề khác gần đây đã khiến các xưởng đóng tàu của hải quân Mỹ sa thải công nhân lành nghề, khiến các tàu chiến của Mỹ phải nán lại xưởng đóng tàu lâu hơn để sửa chữa.
Asia Times đã lưu ý vào tháng 11 năm ngoái rằng SSBN của Trung Quốc rất cần thiết cho khả năng tấn công hạt nhân lần thứ hai của nước này, với việc nâng cấp hạm đội cho phép Trung Quốc tự tin hơn về chính sách hạt nhân “không sử dụng trước”. Điều này liên quan đến cấu trúc lực lượng hạt nhân của Trung Quốc, được thiết kế để chống lại cuộc tấn công đầu tiên của kẻ thù và trả đũa các mục tiêu chiến lược thay vì đe dọa đáng tin cậy việc sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên.
Để diễn giải bài báo tháng 4 năm 2020 của David Axe cho Forbes, một cuộc chiến nổ súng ở Đài Loan có thể chứng kiến các SSN của Hoa Kỳ di chuyển vào Biển Đông để săn lùng các SSBN của Trung Quốc, điều mà ông cho rằng có thể gây ra sự trả đũa hạt nhân thảm khốc. Với tư cách là những người đảm bảo cho khả năng tấn công lần hai, SSBN của Trung Quốc đảm bảo rằng một cuộc chiến tranh hạt nhân là không thể thắng, khiến nó trở thành một lựa chọn chính sách hủy diệt tự sát, được đảm bảo bởi cả hai bên.
Việc giới thiệu JL-3 có thể cho phép Trung Quốc thực hiện thành công “chiến lược pháo đài” ở Biển Đông, loại bỏ nhu cầu các SSBN của nước này đi thuyền vào Tây Thái Bình Dương để phóng SLBM của họ.
Thay vào đó, trong chiến lược pháo đài, Trung Quốc sẽ sử dụng Biển Đông như một khu bảo tồn SSBN được bảo vệ bởi tên lửa đất liền, máy bay, lực lượng hải quân và các đảo cũng như thực thể kiên cố của nó.
Cấu hình nửa kín của Biển Đông khiến nó trở thành một khu vực lý tưởng cho chiến lược pháo đài. Từ góc độ hậu cần, Trung Quốc có thể dễ dàng duy trì các cuộc tuần tra SSBN tầm ngắn trên các vùng nước mở với các cơ sở chỉ huy và kiểm soát tương đối gần đó.
Hơn nữa, do Biển Đông nằm giữa các tuyến đường liên lạc trên biển (SLOC), môi trường tiếng ồn dưới nước có thể khiến các SSBN của Trung Quốc khó bị phát hiện hơn. Tiếng ồn có thể được khai thác cùng với các tính năng âm thanh và nhiệt độc đáo của khu vực để ẩn đi.
Sự phát triển khả năng của SSBN có thể gắn liền với việc Trung Quốc liên tục mở rộng kho vũ khí hạt nhân của mình. Asia Times đã lưu ý vào tháng trước rằng Trung Quốc có kế hoạch mở rộng kho vũ khí hạt nhân của mình từ khoảng 400 đầu đạn hiện nay lên 1.500 vào năm 2035, với kho vũ khí lớn hơn và đa dạng hơn sẽ tăng khả năng tấn công lần hai của Trung Quốc và đặt nước này vào vị trí tốt hơn để đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân .
Các nhà quan sát lưu ý rằng 700 đầu đạn hạt nhân có khả năng đủ để Trung Quốc duy trì khả năng tấn công thứ hai an toàn, với các lựa chọn cho các cuộc tấn công hạt nhân ở cấp độ hạn chế.
Hơn nữa, kho vũ khí hạt nhân lớn hơn và đa dạng hơn làm tăng số lượng và loại mục tiêu mà Trung Quốc có thể gặp nguy hiểm, có thể bao gồm các nhóm tác chiến tàu sân bay và căn cứ đảo của Mỹ nằm rải rác trên Thái Bình Dương bao gồm Hawaii và Guam.
Tuy nhiên, ngay cả khi các SSBN của Trung Quốc lảng vảng trên Biển Đông suốt ngày đêm, chúng có thể không an toàn trước sự nghe lén dưới nước và những con mắt tò mò trên bầu trời.
Trong một bài báo vào tháng 11 năm 2020 cho The National Interest, Kris Osborne đã đề cập đến “Tuyến phòng thủ dưới biển hình móc cá của Hải quân Hoa Kỳ”, một mạng lưới liền mạch gồm các ống nghe dưới nước, cảm biến và tài sản được đặt ở vị trí chiến lược bắt đầu từ bờ biển phía bắc Trung Quốc và chạy đến Đài Loan, Philippines và Indonesia.
Hoa Kỳ duy trì một mạng lưới các cảm biến và tài sản dưới biển. Ảnh: US Navy/Joshua KnollaHệ thống đó đảm bảo rằng các SSBN của Trung Quốc
không thể rời khỏi Biển Đông mà không bị phát hiện, loại bỏ lợi thế về không gian và khoảng cách mà đại dương có được trong việc che giấu các SSBN.
Mặc dù các SSBN của Trung Quốc có thể không cần phải ra khỏi Biển Đông để phóng tên lửa và đe dọa đất liền Hoa Kỳ, nhưng chúng bị bao vây bởi vùng nước, điều này có thể cho phép theo dõi dễ dàng hơn thông qua các phương tiện khác.
Asia Times đã lưu ý vào tháng trước rằng Hoa Kỳ và các đồng minh của họ có thể sử dụng lưới vệ tinh theo kế hoạch của Úc để theo dõi các tàu ngầm của Trung Quốc. Lưới có các tiến bộ trong công nghệ cảm biến như hình ảnh vệ tinh có độ phân giải cao và radar khẩu độ tổng hợp kết hợp với giám sát thủy âm và trí thông minh nguồn mở sẽ khiến các đại dương trở nên “trong suốt” vào năm 2050, loại bỏ mọi lợi thế tàng hình mà tàu ngầm hiện có.
https://asiatimes.com/2023/04/china-intensifies-nuclear-strike-threat-in-south-china-sea/
Lê Văn dịch lại