Hành động giả tạo ngoại giao của Trung Quốc đẩy Manila trở lại vòng tay của Hoa Kỳ
Một tia sáng laser làm mù mắt tạm thời vài thủy thủ Phi đã làm cho Tổng thống Marcos Jr. sáng mắt, quay lưng với TQ
Còn đcsVN thì đã mõi mòn hi vọng gần 50 năm để TQ trả lại quần đảo Hoàng Sa vẫn không được, mấy vạn “bộ đội cụ Hồ” phải bỏ mạng dưới họng súng của lính Mao hồi 1979, rồi thêm 64 sinh mạng “hải quân Nhân Dân” làm bia đạn cho “quân giải phóng nhân dân” TQ năm 1988 tại Gạc Ma, mà nay vẫn tiếp tục “kiên định theo CNXH, trung thành với 16 chữ vàng 4 tốt”, nâng TQ thành đối tác chiến lược toàn diện, cho xây đặc khu kinh tế TQ từ bắc xuống nam, từ trong đất liền ra đến biển đảo (đặc khu kinh tế Phú – Quốc) ai nghe qua đều cho đó là chuyện thần thông giả tưởng, nhưng…! BBT
Bắc Kinh chỉ có lỗi nếu thua Washington về mặt chiến lược
Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. có bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 126 năm thành lập Quân đội Philippines tại Pháo đài Bonifacio ở Taguig, Philippines vào ngày 22 tháng 3. © AP
TORU TAKAHASHI, biên tập viên cấp cao của Nikkei26 tháng 3 năm 2023 09:09 JST
TOKYO – Ferdinand Marcos Jr. đã thực hiện chuyến thăm đầu tiên tới Nhật Bản với tư cách là tổng thống Philippines vào đầu tháng 2, cùng với khoảng 240 doanh nhân. Trong thời gian lưu trú 5 ngày cho đến hết ngày 12 tháng 2 – thời gian dài bất thường đối với một nhà lãnh đạo quốc gia – ông đã xoay sở để đảm bảo cam kết đầu tư và hỗ trợ tài chính trị giá 13 tỷ đô la từ khu vực công và tư nhân Nhật Bản.
Tại cuộc gặp với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, hai nhà lãnh đạo đã nhất trí đơn giản hóa thủ tục cử Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (SDF) tới Philippines khi cần thiết để hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai.
Vào tháng 1, Marcos đã đến thăm Trung Quốc và ký kết các thỏa thuận đầu tư với Chủ tịch Tập Cận Bình trị giá 22,8 tỷ USD. Ông cũng nhất trí với nhà lãnh đạo Trung Quốc thiết lập đường dây nóng để giải quyết “hòa bình” các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Căn cứ vào thời điểm các chuyến thăm của Marcos, và nội dung của các thỏa thuận kinh tế và an ninh, thoạt nhìn, Trung Quốc dường như đã đạt được nhiều hơn Nhật Bản trong quan hệ trực tiếp với Philippines. Nhưng tờ Inquirer, một nhật báo tiếng Anh của Philippines, không đồng ý.
“Nhật Bản là một quốc gia đặt tiền đúng chỗ… không giống như các quốc gia khác hứa hẹn đầu tư hàng tỷ đô la, nhưng chỉ thực hiện những cây cầu từ hai đến bốn làn xe bắc qua sông Pasig hẹp, và tệ hơn nữa, sử dụng quân sự- laser cấp khiến nhân viên Lực lượng bảo vệ bờ biển của chúng tôi bị mù tạm thời ở vùng biển được quốc tế công nhận là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của chúng tôi,” tờ báo cho biết trong một bài xã luận ngày 15 tháng 2 có tiêu đề “Một cơn gió từ Nhật Bản”.
Tất nhiên, “các quốc gia khác” là một ám chỉ mỉa mai về Trung Quốc. Sự cố laser được đề cập trong bài xã luận xảy ra vào ngày 6 tháng 2 gần bãi cạn Ayungin thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Bãi cạn nằm dưới sự kiểm soát hiệu quả của Philippines.
Vào ngày hôm đó, một tàu Cảnh sát biển Trung Quốc đã chiếu tia laser “cấp độ quân sự” màu xanh lá cây vào một tàu Philippines đang chở thực phẩm và đồ tiếp tế cho quân đội đóng trên bãi cạn, khiến thủy thủ đoàn bị mù tạm thời. Philippines sử dụng một tàu chiến cũ cố tình neo đậu trên bờ làm tiền đồn hải quân cho một đội quân nhỏ.
Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr., trái, chào đón Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida trước cuộc hội đàm tại Tokyo vào ngày 9 tháng 2. © Reuters
Vì Marcos đã lên kế hoạch thăm Nhật Bản từ ngày 8 tháng 2, sự cố laser được nhiều người coi là lời cảnh báo từ Bắc Kinh không nên làm sâu sắc thêm quan hệ với Nhật Bản và Hoa Kỳ. Trên thực tế, bốn ngày trước khi vụ việc xảy ra, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin đã đến thăm Manila và đồng ý về một thỏa thuận mở rộng sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Philippines bằng cách tăng khả năng tiếp cận chín căn cứ từ năm căn cứ hiện tại.
Một tuyên bố chung được đưa ra khi Marcos đến thăm Trung Quốc vào tháng 1 đã đề cập đến một thỏa thuận nhằm “quản lý những khác biệt một cách phù hợp thông qua các biện pháp hòa bình”. Sau sự cố laser, Bộ Ngoại giao Philippines đã chỉ trích Bắc Kinh, gọi vụ việc là “hành động gây hấn” và “đáng lo ngại và đáng thất vọng”, vì nó xảy ra ngay sau chuyến thăm Trung Quốc của Marcos.
Manila đã công khai vụ việc vào ngày 13 tháng 2, một tuần sau khi nó xảy ra. Mong muốn tránh xích mích với Bắc Kinh, chính phủ Philippines có thể đã đợi Marcos trở về từ Nhật Bản trước khi đưa tin. Tuy nhiên, trong khi cố gắng không khiêu khích Bắc Kinh một cách không cần thiết, Marcos đã theo đuổi các sáng kiến ngoại giao trái ngược với hình ảnh thân Trung Quốc mà ông đã nuôi dưỡng trước khi trở thành tổng thống vào tháng 6 năm ngoái.
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Marcos đã hợp tác với Sara Duterte, con gái của người tiền nhiệm Rodrigo Duterte, cam kết tiếp tục các chính sách của ông.
Bất chấp liên minh lâu đời giữa Mỹ và Philippines, ông Duterte đã tỏ thái độ khó chịu với Washington sau khi Mỹ chỉ trích cuộc chiến chống ma túy của ông là vi phạm nhân quyền. Duterte quay sang Bắc Kinh để được hỗ trợ kinh tế.
Trong một vụ kiện do chính phủ Philippines trước đây đưa ra, một tòa án quốc tế ở The Hague đã ra phán quyết vào năm 2016 rằng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông là không có cơ sở pháp lý. Nhưng bất chấp chiến thắng vang dội của Manila, ông Duterte đã coi phán quyết này là “một tờ giấy” và ngừng tích cực theo đuổi các yêu sách lãnh thổ của nước này đối với Trung Quốc.
Marcos đã ca ngợi chính sách đối ngoại của Duterte, gọi sự can dự với Trung Quốc là “lựa chọn duy nhất của chúng tôi.” Ngay sau khi nộp đơn ứng cử tổng thống vào năm 2021, ông đã đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Manila để gặp đại sứ. Tuy nhiên, sau cuộc bầu cử, ông đã thay đổi quan điểm của mình, nói rằng ông sẽ không “cho phép một inch quyền hàng hải ven biển của chúng ta bị chà đạp.”
Bức ảnh do Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Philippines cung cấp cho thấy một tia laser nhắm vào từ một tàu Cảnh sát biển Trung Quốc gần một bãi cạn đang tranh chấp ở Biển Đông vào ngày 6 tháng 2. (Cảnh sát biển Philippines qua AP)
Có hai lý do khiến Marcos trở mặt.
Đầu tiên, Philippines đã thu được rất ít từ chính sách thân Trung Quốc của Duterte. Phát biểu tại hội nghị “Tương lai châu Á” của Nikkei vào năm 2019, Duterte đã đặt câu hỏi về chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông, hỏi liệu “một quốc gia tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ đại dương” có đúng hay không. Nhưng anh cũng nói rõ mong muốn được hòa thuận với người hàng xóm khổng lồ của mình. “Tôi yêu Trung Quốc,” Duterte nói. “Chúng tôi là bạn … và tôi không thể gây chiến với bất kỳ ai.”
Duterte rõ ràng đã tính toán rằng các mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ sẽ làm giảm căng thẳng quân sự và ngoại giao với Bắc Kinh. Nhưng bất chấp các chuyến thăm thường xuyên của ông tới Trung Quốc và Bắc Kinh cam kết đầu tư hàng chục tỷ đô la vào Philippines, chưa đến một nửa lời hứa đã được thực hiện, theo một người quen thuộc với vấn đề này. Trong khi đó, các hành động khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông vẫn tiếp tục, bao gồm biến các đảo nhân tạo thành căn cứ quân sự và thành lập các khu hành chính trên các đảo tranh chấp.
“Kinh nghiệm của Duterte cho thấy Trung Quốc đang tỏ ra là một đối tác không đáng tin cậy”, Makoi Popioco, giám đốc phụ trách các vấn đề Thái Bình Dương tại Đại học Quốc gia Australia, cho biết.
Yếu tố thứ hai khiến Marcos thay đổi lập trường là do các cơ sở quốc phòng và chính sách đối ngoại của Philippines thúc đẩy duy trì liên minh truyền thống của nước này với Mỹ.
Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr., trái, gặp Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin tại dinh tổng thống Malacanang ở Manila vào ngày 2 tháng 2. © Reuters
Ví dụ, vào tháng 9 năm 2020, Bộ Ngoại giao đã thành công trong việc đưa ngôn ngữ vào bài phát biểu của Duterte tại Liên Hợp Quốc kêu gọi giải quyết tranh chấp Biển Đông dựa trên Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển và phán quyết của tòa ở The Hague.
Khi Hoa Kỳ từ chối cấp thị thực cho một cựu Cảnh sát trưởng Quốc gia Philippines và là một phụ tá thân cận của Duterte, vào tháng 2 năm 2020, tổng thống đã đe dọa hủy bỏ Thỏa thuận Lực lượng Thăm viếng song phương (VFA), cho phép các tàu quân sự Hoa Kỳ đến thăm các cảng ở Philippines và hai nước tổ chức diễn tập quân sự chung.
Yusuke Takagi, phó giáo sư tại Viện nghiên cứu chính sách quốc gia ở Tokyo, cho biết: “Sáu năm cầm quyền của chính quyền Duterte là một phép thử căng thẳng đối với chính sách an ninh và ngoại giao thông thường của đất nước”. “Đất nước bằng cách nào đó đã vượt qua được bài kiểm tra.”
Khi Marcos đến thăm Bắc Kinh vào tháng 1, ông Tập gọi tình hữu nghị giữa hai nước là “không thể thay thế”, lưu ý rằng hai quốc gia đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1975, khi cha của Marcos là tổng thống. Nhưng Marcos dường như nhận thức sâu sắc rằng người cha độc tài của ông đã bị lật đổ trong cuộc cách mạng “Quyền lực Nhân dân” năm 1986 vì ông mất đi sự ủng hộ của các lực lượng vũ trang. Với mối quan hệ chặt chẽ của quân đội với Hoa Kỳ, Marcos Jr. không có lựa chọn nào khác ngoài việc đảo ngược phần lớn chính sách thân Trung Quốc của Duterte.
Tuy nhiên, ông có thể không chỉ quay trở lại chính sách đối ngoại truyền thống của Philippines. Victor Manhit, chủ tịch của tổ chức tư vấn chiến lược Stratbase của Philippines, coi đây là một bước tiến xa hơn so với trước đây của đất nước, nói rằng, “Chúng tôi chấp nhận rằng chúng tôi phải nhìn vào bạn bè và đồng minh bên ngoài Hoa Kỳ.”
Đằng sau thỏa thuận đơn giản hóa các thủ tục điều SDF tới Philippines là khả năng ký kết VFA với Nhật Bản, cho phép hai nước tiến hành các cuộc tập trận quân sự chung quy mô lớn. Sau khi Marcos trở về từ Nhật Bản, Manila đã mời Bộ trưởng Quốc phòng Úc Richard Marles đến dự một cuộc họp vào ngày 22 tháng 2 và đồng ý tổ chức các cuộc đàm phán cấp bộ trưởng quốc phòng thường xuyên. Philippines đã có VFA với Australia. Nếu Nhật Bản tham gia cùng họ, Mỹ và ba đồng minh của họ có thể tiến hành các cuộc tập trận và tuần tra chung ở Biển Đông, tăng cường đáng kể khả năng răn đe đối với Trung Quốc.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, trái, và Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. duyệt đội danh dự trong lễ đón nhà lãnh đạo Philippines tại Bắc Kinh vào ngày 4/1.
Về phần mình, Trung Quốc tiếp tục phạm những sai lầm ngớ ngẩn. Sự cố laser hồi tháng Hai không phải là lần đầu tiên giữa Trung Quốc và Philippines. Vào tháng 4 năm 2020, một vụ việc tương tự đã xảy ra khi một tàu Trung Quốc chiếu tia laser vào tàu hải quân Philippines. Vào thời điểm đó, Manila đã thông báo cho Washington về ý định hủy bỏ VFA và hiệp định này sẽ hết hiệu lực vào tháng 8 năm đó. Nếu điều đó xảy ra, Hoa Kỳ sẽ không còn có thể tiến hành các cuộc tập trận và huấn luyện quân sự ở Philippines, nơi đã được tổ chức 300 lần trở lên mỗi năm.
Nhưng Bắc Kinh đã thổi bay cơ hội ngàn vàng để mở rộng ảnh hưởng trong khu vực. Sau sự cố laser, Duterte đã đảo ngược hướng đi và giữ nguyên thỏa thuận, chịu áp lực từ Bộ Quốc phòng và các lực lượng vũ trang.
Khuôn khổ an ninh thông thường ở châu Á là một mô hình “trục và nan hoa”, với năm quốc gia trong khu vực – Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Philippines và Thái Lan – mỗi quốc gia thành lập các liên minh song phương riêng biệt với Hoa Kỳ. ngoài các phát ngôn viên khác, chẳng hạn như Nhật Bản và Australia, cấu trúc an ninh ở châu Á có thể thay đổi triệt để.
Điều trớ trêu là chính Trung Quốc đã đẩy Manila trở lại vòng tay của Washington, nhờ những lời hứa suông và chiến thuật vũ lực. Trung Quốc chỉ có lỗi với chính mình vì đã thắt chặt thòng lọng quanh cổ.
https://asia.nikkei.com
Lê Văn dịch lại