Vết rạn nứt trong kinh tế phép lạ Việt Nam
Việt Nam được hưởng lợi rất nhiều từ xu hướng tách khỏi Trung Quốc nhưng xuất khẩu chậm lại có nguy cơ đảo ngược nhiều thành tựu gần đây
bởi David Dapice ngày 3 tháng 1 năm 2023
Một cửa hàng quần áo bán các sản phẩm sản xuất tại địa phương ở trung tâm thành phố Hà Nội. Ảnh: AFP/Hoàng Đình Nam
Sau hai năm bị ảnh hưởng bởi Covid-19 và được đánh dấu bằng mức tăng trưởng GDP từ 2% đến 3%, nền kinh tế Việt Nam đã có sự trở lại mạnh mẽ vào năm 2022. Các dự báo dự báo mức tăng trưởng GDP thực tế vào khoảng 7,5% cho năm 2022, chậm lại so với mức tăng trưởng GDP 8,8% thấy trong chín tháng đầu năm. Xuất khẩu từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2022 tăng trưởng nhiều hơn nhập khẩu — với mức tăng 13% đối với xuất khẩu và 10% đối với nhập khẩu — do đó, có thặng dư thương mại khiêm tốn. Du lịch đã phục hồi từ mức thấp của năm 2021, hỗ trợ sự tăng trưởng mạnh mẽ trong lĩnh vực dịch vụ.
Sản xuất và công nghiệp đã tăng gần 9% cho đến cuối tháng 11 — tốc độ chậm hơn so với đầu năm. Các đơn đặt hàng xuất khẩu bị chậm lại và hàng trăm nghìn công nhân nhà máy có thể phải đối mặt với việc bị sa thải theo các báo cáo không chính thức.
Đây là một mối lo ngại nghiêm trọng, đặc biệt nếu xu hướng này gia tăng vào năm 2023. Các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp khoản trợ cấp thất nghiệp hạn chế, đặc biệt là đối với những người lao động mới làm việc được vài năm.
Trái phiếu doanh nghiệp cũng gặp khó khăn, đặc biệt là trái phiếu của các công ty bất động sản. Có hàng tỷ đô la trái phiếu bằng đồng Việt Nam cần được tái cấp vốn vào năm 2022 và 2023.
Hầu hết trong số này đã được bán thông qua phát hành riêng lẻ và sau đó bán cho các nhà đầu tư địa phương. Với tín dụng thắt chặt, một phần do việc sử dụng dự trữ ngoại hối của Việt Nam để hỗ trợ đồng tiền của mình, rất khó để các công ty tái cấp vốn.
Chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam đã bắt đầu xem xét một số vụ chuyển nhượng đất đai của các công ty bất động sản, gây nghi ngờ về khả năng họ nhận được quyền sở hữu hợp pháp đầy đủ hoặc quyền kiểm soát đất đai cần thiết cho các dự án của họ.
Điều này gây khó khăn cho các ngân hàng tài trợ cho các dự án hoặc cho người nước ngoài mua tài sản. Điều này có thể gây khó khăn cho nhiều công ty trừ khi đạt được một số giải pháp. Nhưng những vấn đề bất động sản này gần như không lớn như ở Trung Quốc và có thể kiểm soát được ở Việt Nam.
Có những thế mạnh để bù đắp những thách thức này. Lạm phát được báo cáo ở mức thấp một con số, mặc dù nhiều người phàn nàn rằng lạm phát thực sự cao hơn. Tính đến đầu tháng 12 năm 2022, đồng tiền này chỉ mất giá khoảng 5% so với đồng đô la Mỹ, ít hơn so với nhiều quốc gia khác
Đồng Việt Nam đã tăng giá trong khi các đồng tiền châu Á khác mất giá mạnh vào năm 2022. Ảnh: Facebook
Chính sách tài khóa bị hạn chế. Trừ một số trường hợp ngoại lệ, hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều ở thế mạnh với nguồn vốn đầy đủ.
Dòng vốn vào cao và việc thực hiện đầu tư nước ngoài cho thấy rằng khi nền kinh tế toàn cầu phục hồi, sẽ có một dòng lao động tiếp tục chuyển từ ngành nông nghiệp năng suất thấp sang ngành sản xuất có năng suất cao hơn. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu về bất động sản ở các thành phố, mặc dù tốc độ tăng trưởng dân số thấp hơn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất cũng sẽ hỗ trợ tăng trưởng và góp phần chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế. Kế hoạch ngừng hoặc cắt giảm việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới sẽ tránh được tài sản bị mắc kẹt và ô nhiễm.
Trong khi đó, việc tham gia các hiệp định thương mại đang giúp Việt Nam tiếp cận thị trường thế giới — mặc dù chính phủ Việt Nam đang hy vọng rằng căng thẳng thương mại Trung Quốc-Hoa Kỳ không ngăn cản họ tận dụng tối đa vị thế là cơ sở cung ứng được Hoa Kỳ chấp nhận trong khi vẫn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu đầu vào trung gian từ Trung Quốc.
Vào năm 2023, người ta dự đoán rằng động lực của nền kinh tế sẽ không còn là xuất khẩu hay thậm chí là chi tiêu của người tiêu dùng, vốn đã tăng trưởng 15% trong năm 2022.
Thay vào đó, sự phục hồi hơn nữa của ngành du lịch khi Trung Quốc nới lỏng các giao thức Covid-19 cùng với sự gia tăng mạnh mẽ trong đầu tư của chính phủ nhằm thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hướng tới mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5%.
Đây là một mục tiêu đầy tham vọng và có thể khó đạt được nếu nền kinh tế thế giới, hoặc ít nhất là các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc, đang suy yếu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể vẫn mạnh nếu các công ty tiếp tục rời khỏi Trung Quốc, phản ánh mối lo ngại về sự bất ổn được nhận thấy trong chính sách của Trung Quốc do phong tỏa do Covid-19 và tiếp tục lo ngại về căng thẳng của Trung Quốc với các nền kinh tế lớn khác.
Công nhân nhà máy Việt Nam theo hàng. Hình ảnh: Facebook
Thật vậy, Việt Nam có thể nhận thấy rằng vào cuối thập kỷ này, họ sẽ cạn kiệt lao động nông thôn muốn rời khỏi các nhà máy. Công nhân nông trại đạt 24,5 triệu vào năm 2014 và chỉ còn 14,2 triệu vào năm 2021, cho thấy mức giảm gần 1,5 triệu mỗi năm theo dữ liệu từ Ngân hàng Phát triển Á Châu .
Nếu tỷ lệ đó tiếp tục trong 5 năm nữa, những người còn lại trong ngành nông nghiệp sẽ có năng suất ngang với những người làm trong lĩnh vực sản xuất và nhiều người trong số họ sẽ là những công nhân lớn tuổi không hứng thú với công việc ở nhà máy.
“Động cơ” tăng trưởng nhanh trong thập kỷ qua sẽ yếu đi và tăng trưởng lực lượng lao động sẽ chậm lại. Tại thời điểm đó, tăng trưởng GDP sẽ giảm xuống còn 5% hoặc ít hơn trừ khi năng suất trên toàn nền kinh tế tăng nhanh hơn.
Đây là thách thức trung hạn đối với Việt Nam — chuyển đổi các nguồn tăng trưởng sang dựa trên năng suất thay vì tái phân bổ lao động thông qua di cư. Nhưng vào năm 2023, giả sử không có thiên tai lớn, Việt Nam có thể duy trì đà tăng trưởng của nền kinh tế miễn là môi trường toàn cầu được cải thiện trong năm.
David Dapice là Nhà kinh tế cấp cao tại
Trung tâm Ash về Quản trị Dân chủ và Đổi mới tại Trường Chính phủ John F
Kennedy, Đại học Harvard.
Lê Văn dịch lại