Dohamide, Giấc Mơ Chàm và Bangsa Champa
Tưởng nhớ niên trưởng Ðỗ Hải Minh, đảng viên kỳ cựu của Tân Ðại Việt vừ qua đời. BBT
TIỂU SỬ
Dohamide, người gốc Chăm, sinh năm 1934 tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang), có thêm ba bút hiệu nhưng ít được biết đến: Linh Phương, Châu Giang Tử, Châu Lang. Khi Dohamide có bài viết đầu tiên “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay” đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1962, Chủ nhiệm Lê Ngộ Châu đã giới thiệu anh với độc giả như sau:
“Bạn Dohamide, tác giả loạt bài sau đây, là người gốc Chàm, sanh
tại làng Katambong, Châu Đốc (An Giang). Bạn đã có can đảm thoát ly
những ràng buộc khắt khe của tập tục địa phương để lên thủ đô Sài Gòn
vừa đi làm nuôi gia đình vừa đi học, và hiện nay bạn đã tốt nghiệp ở Học
Viện Quốc Gia Hành Chánh. Ngoài tiếng Chàm là tiếng mẹ đẻ, bạn Dohamide
biết nói và viết các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt,
những thứ tiếng này đã giúp bạn Dohamide rất nhiều trong những thiên
khảo cứu như trình bày với bạn đọc.” [Bách Khoa, số 135, 15/8/1962]
Dohamide và người em Dorohiêm, cả hai “đã sanh ra và lớn lên tại một thôn ấp người Chăm theo tôn giáo Islam hệ Sunni Imam Shafi’y, vốn là hậu duệ của Vương quốc Champa lưu vong từ miền Trung Việt Nam ngày nay. Do vào thời vua Minh Mạng áp dụng một chánh sách đối xử khắc nghiệt tàn sát người Chàm, họ phải đào thoát sang định cư bên đất Kampuchea và mãi về sau này, do có chính sách chiêu dụ của nhà Nguyễn, một số đã trở về tái định cư tại vùng Tây Nam Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trên vùng đất mới này, có 7 làng Chăm đã được thành lập, (con số 7 có ý nghĩa thiêng liêng với người Chàm), trong đó, ngôi làng chúng tôi có từ thời thuộc Pháp, lấy tên là làng Katambong tức Koh Ta–boong thuộc tỉnh Châu Đốc.
Koh tiếng Chàm có nghĩa là cồn hay cù lao, Ta-boong là cây gậy, ngụ ý hình dáng cù lao này giống như một cây gậy.” Koh Ta-boong nguyên là một cồn cát, do phù sa từ sông Mekong tạo nên dọc theo một bên bờ sông Hậu, hàng năm đều có lụt với mùa “nước nổi, nước giựt”
và hiện tượng bên lở bên bồi. Làng Katambong nằm phía bên bồi, nay là
một ấp lấy tên Việt Nam là Khánh Mỹ thuộc xã Khánh Hoà, huyện Châu Phú,
tỉnh An Giang.
“Ngoài ra còn có 6 làng người Chăm khác là Mat Chruk,
Koh Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, Koh Ghoi, Koh Kaghia, Sabâu, với địa
danh Việt tương ứng là Châu Giang, Đa Phước, Châu Phong, La Ma hoặc Vĩnh
Trường, Bún Lớn hoặc Bún Bình Thiên, Đồng Cô Kỵ… với địa thế không liền
nhau.” [1]
Làng Katambong là một xã hội Chăm thu nhỏ và khép kín. Người Việt bên kia sông thì quen gọi họ là Chà Châu Giang, trong khi người Chàm thì vẫn gọi người Việt là “Yuôn”, tuy sống kế cận nhưng họ thuộc hai nền văn minh khác nhau: một bên là nền văn minh cầm đũa (civilization de la baguette), một bên là nền văn minh ăn bốc.
Thân phụ anh Dohamide là một trong hai vị giáo làng trong 7 làng Chăm
địa phương, một mình ông phải phụ trách luôn cả ba lớp: đồng ấu / cours
enfantin, dự bị / cours préparatoire và sơ đẳng / cours élémentaire,
học đến đó là hết lớp; muốn tiếp tục học thêm thì phải ra trường tỉnh
nhưng hầu hết các học sinh Chăm trong làng Katambong đều nghỉ học và sau
đó chỉ đến trường để được dạy thêm kinh sách giáo lý Islam.
Qua sông thăm Cồn Tơ Lụa làng Đa Phước:
*
*
Năm 1943, đã 9 tuổi, như một trường hợp hiếm hoi, Dohamide được thân
phụ khuyến khích ra trường tỉnh học tiếp lớp nhì / cours moyen. Đi học
hàng ngày, phải qua sông bằng xuồng. Ra tỉnh, được tiếp xúc với một xã
hội xa lạ giữa những người Yuôn / Kinh, cũng là lúc Dohamide bắt đầu có
những thắc mắc về cội nguồn của mình. Bangsa Champa, tìm về cội nguồn, có lẽ bắt đầu từ đây.
Năm 1948, sau bậc tiểu học, Dohamide lại được cha mẹ thu xếp cho đi
tàu sông rời quê nhà lên Sài Gòn học tiếp bậc trung học. Tại Hòn Ngọc Viễn Đông,
Dohamide được tiếp cận với một xã hội mở rộng gồm nhiều sắc tộc, không
phải chỉ có người Việt, người Pháp, người Hoa mà còn có cả người Ấn Độ,
người Mã Lai theo đạo Islam, họ làm ăn rất thành công và giàu có.
Nhưng cảnh sống đạm bạc của Dohamide vẫn thu hẹp trong một khu xóm
lao động Nancy nghèo nàn, gồm những căn nhà cây vách ván lụp xụp thuộc
quận 2. Dohamide sống chung với mấy gia đình Chăm cũng đến từ Châu Đốc,
họ lên Sài Gòn kiếm sống bằng cách làm thuê, buôn bán nhỏ rải rác nhưng
vẫn tìm đến với nhau để gần gũi nương tựa, lâu dần cũng hình thành được
một mô thức jam’ah / cộng đồng. Để duy trì đức tin, họ tạo được riêng một giáo đường / masjid
khởi đầu chỉ là căn nhà gỗ nhỏ thô sơ nhưng đó vẫn là nơi để duy trì
những sinh hoạt xã hội tôn giáo y khuôn như tại quê nhà khiến chàng trai
Dohamide tuy sống thiếu thốn nhưng vẫn cảm thấy được ấm lòng.
Năm 1953, xảy ra một trận hoả hoạn tại khu Nancy đã khiến cho cộng
đồng người Chăm đang sinh sống ở đây bị trắng tay. Cố gắng xây dựng lại,
chưa được bao lâu lại xảy ra vụ Bình Xuyên 1955, xóm Nancy một lần nữa
lại bị thiêu rụi. Điều tiếc nuối nhất với Dohamide là bao nhiêu ghi chép
về lịch sử Champa từ Thư viện Việt Nam cũng thành tro than. Dohamide
viết: “Nhưng dầu sao, qua quá trình lần mò ghi chép, ít nhất tôi
cũng có được trong đầu một ý niệm tổng quát sơ khởi về Bangsa Champa gốc
nguồn và biết được những sự kiện căn bản bao quanh người Chăm Châu Đốc,
trong đó có bản thân tôi.” [1]
Tuy nghèo xác xơ, nhưng những người Chăm này vẫn cố bám đất, từng
bước xây dựng lại đời sống mới. Do thấy rõ được nhu cầu phải liên hệ với
xã hội bên ngoài, Dohamide được mấy vị trưởng thượng đề nghị anh mở lớp
dạy chữ Việt cho các đồng tộc Chăm. Qua lớp học này, qua ngôn ngữ Việt,
ý niệm về cội nguồn Bangsa Champa được đánh thức dậy. Số người Chăm
Châu Đốc lên sống ở Sài Gòn ngày càng nhiều, không phải chỉ ở khu xóm
Nancy, nay lan ra các xóm lao động khác như Hoà Hưng, Phú Nhuận… dần dà
họ kết nối lại được thành những jam’ah / cộng đồng nhỏ, nhưng xóm Nancy
vẫn là khu sinh hoạt trung tâm. Và nơi đây cũng là cái nôi cho Hiệp hội Hồi giáo Việt Nam được hình thành vào năm 1959.
Xong chương trình Tú tài I, Dohamide chọn thi vào học Ban Tham sự Đặc biệt Cao Nguyên chương trình 2 năm
(dành cho người sắc tộc thiểu số) thuộc Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và
cũng là lần đầu tiên trong đời Dohamide được gặp một số bạn đồng khoá
thuộc các sắc tộc Tây nguyên như Ê-đê, Churu, Jarai, Bahnar… và cả những người thiểu số Thái, Tày, Nùng di cư từ miền Bắc vào. Và đặc biệt hơn nữa, Dohamide còn có được hai người bạn Chăm tới từ Phan Rang,
nhưng với cảm giác đau xót là họ đã không thể hiểu nhau bằng ngôn ngữ
Chăm, vốn gốc là tiếng mẹ đẻ của mình, và cả ba không có cách nào khác
hơn là phải dùng tiếng Việt pha với tiếng Pháp để trao đổi chuyện trò.
Dohamide tốt nghiệp Thủ khoa Ban Cao Nguyên (1958). Khi có thêm Tú tài II, Dohamide được học tiếp lên Ban Đốc sự Hành chánh Khoá 7 chương trình 3 năm,
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1959-1962). Sau khi tốt nghiệp, Dohamide
được bổ nhiệm làm việc trong ngạch hành chánh công quyền.
Từ năm 1956, do chánh sách có từ thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà, quy định Việt Nam hoá tên họ
các sắc dân thiểu số; theo anh Nguyễn Đắc Điều (Đốc sự Khoá 6), thì anh
Dohamide không tự chuyển tên mình sang tiếng Việt, nhưng khi danh sách tốt nghiệp Đốc sự Khoá 7 (1962) trình lên Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì tên Dohamide đã trở thành “Đỗ Hải Minh”. [Nghị định bổ nhiệm đính kèm]
*
Năm 1964, Dohamide lập gia đình với cô giáo người gốc Việt Phan Thị
Hoàng Hoa, lúc đó đang dạy học ở một trường trung học Gia Định. Cũng khi
đó Dohamide được một vài bô lão Chăm có tinh thần Bangsa cực đoan nhắc nhở anh, việc vua Chăm Pô Rômê ngày xưa đã chết vì cưới vợ Việt.
*
Là người Chăm, không thể không bị xúc động thấm thía khi được đọc
về câu chuyện – dù biết rõ nội dung mang nặng tính huyền thoại dân gian
– vị vua Champa đã say mê sắc đẹp mỹ nhân Yuôn (là tên người Chàm và người Khmer gọi người Việt), để rồi chính nàng Yuôn đã ra tay đốn cây Krêk vốn là tiêu biểu linh hồn Vương quốc Champa khiến phải bị địch bắt đi và chết thảm.
Nhưng rồi một đám cưới Chăm-Việt vẫn cứ diễn ra. Chú rể Chăm Dohamide và cô dâu Yuôn Phan Thị Hoàng Hoa
sau này đã có một cuộc sống lứa đôi rất hạnh phúc, họ có được ba con:
hai trai, một gái là con út đều thành đạt khi tới tuổi trưởng thành.
[Hình 6]
Vào giai đoạn đó, trên Cao Nguyên Trung Phần đang dấy lên cuộc đấu tranh đòi ly khai của phong trào BAJARAKA (là chữ viết tắt của 4 sắc tộc Thượng lớn: BAhnar, JArai, RhAdé và KAho), họ phản đối chính sách phân biệt đối xử người Thượng của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. BAJARAKA được coi là tiền thân của tổ chức FULRO về sau này.
Mặt Trận FULRO (tiếng Pháp: Front Unifié de Lutte des Races Opprimées) không chỉ bao gồm các sắc dân Thượng Tây Nguyên, mà được mở rộng kết hợp thêm với: (1) Mặt trận Giải phóng Champa (Front de Libération du Champa, FLC) tức FULRO Chăm,
do Les Kosem (một tướng nhảy dù người Khmer gốc Chăm) lãnh đạo. (2) Mặt
trận Giải phóng Kampuchea Krom của nhóm người Việt gốc Miên sống ở vùng
Tây Nam Nam bộ (Front de Libération du Kampuchea Krom, FLKK) tức FULRO Khmer, do Chau Dera làm đại diện, để thành lập một tổ chức thống nhất gọi là FULRO: Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức
Do những biến động trên, Bộ Nội vụ VNCH lúc đó đã không bổ nhiệm
những khoá sinh sắc tộc tốt nghiệp vào các nhiệm sở trên vùng Tây
Nguyên. Dohamide ra trường được bổ nhiệm vào chức vụ không liên hệ gì
tới Nha Thượng Vụ, riêng Dorohiêm, thì bị đưa ra vùng địa đầu Quảng Trị
một thời gian 5 năm trước khi được về Sài Gòn làm chuyên viên văn hoá
giáo dục các sắc tộc thiểu số.
Do Dohamide là thành phần người Chăm hiếm hoi có học, anh đã vận động và thành lập được một Hiệp Hội Chàm Hồi giáo Việt Nam từ 1959. Năm 1964, Dohamide được đề cử là Đại biểu Islam Việt Nam đầu tiên tham dự Hội nghị các nước Islam Đông Nam Á và Viễn Đông tại Kuala Lumpur, Malaysia. [Hình 11]
Năm 1972, anh đại diện Việt Nam tham dự Hội nghị Islam Thế giới tại Thánh địa Mecca, Ả Rập Saudi. Và cũng từ đây, Dohamide đã xây dựng được mối quan hệ chính thức giữa cộng đồng Chăm Islam nhỏ bé ở Việt Nam với Liên Minh Islam Thế Giới.
*
MỐI DUYÊN BÁCH KHOA
Và rồi không ai khác hơn, cũng chính là chủ nhiệm Lê Ngộ Châu,
người có mắt xanh đã tìm ra và giới thiệu Dohamide trên báo Bách Khoa,
và có thể nói Dohamide là người Chăm đầu tiên trở thành một tên tuổi
quen thuộc với độc giả Bách Khoa từ thập niên 1960s, do loạt bài chuyên khảo về lịch sử và văn minh Champa.
Buổi đầu, Dohamide chập chững cầm bút tập viết các bài phóng sự tiếng Việt về người Chàm được chủ nhiệm Tam Mộc cho đăng trên nhật báo Buổi Sáng, tuần báo Thế Giới tại Sài Gòn. Dohamide khai thác đề tài “nghề chài rà của người Chàm Châu Đốc”
do truyền thống của dân tộc Champa thời cổ rất giỏi nghề đi biển và
chài lưới. Loạt bài được đón nhận hào hứng, Dohamide còn được đám độc
giả Chăm bình dân yêu cầu khai thác thêm về đề tài “bùa ngải Chà Châu giang”.
Đây cũng là dịp để cộng đồng nhỏ bé Chàm Châu Đốc trong khu xóm nghèo
Nancy mới vừa học tiếng Việt đua nhau mua báo để được hiểu thêm về sinh
hoạt nơi quê nhà.
Trong thời gian học chương trình Đốc sự tại Học Viện Quốc gia Hành Chánh, Dohamide có dịp được làm việc với GS Phó Viện trưởng Nghiêm Đằng và sau đó anh được giới thiệu với Giáo sư Nghiêm Thẩm là bào đệ của ông. GS Nghiêm Thẩm lúc đó là Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn, cũng là Giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn Khoa. Nhờ cơ duyên ấy Dohamide được dịp tham khảo thêm các tài liệu của Viện Khảo cổ và Hội Nghiên cứu Đông Dương (Société des Études Indochinoises).
Vào cuối năm 1962, Dohamide đã hệ thống hoá được các ghi chép và viết loạt bài “Người Chàm tại Việt Nam ngày nay”.
Loạt bài này tình cờ được ông Nguyễn Ngọc Nê, là một chuyên viên trong
đoàn cố vấn Đại học Michigan đọc và lấy làm thích thú nên đề nghị chuyển
tới tạp chí Bách Khoa, nơi anh Lê Ngộ Châu đang là chủ nhiệm kiêm chủ
bút. Lê Ngộ Châu rất bén nhạy, thấy ngay đây là một “viên ngọc ẩn thạch”,
nên đã mời ngay Dohamide tới gặp tại toà soạn Bách Khoa, 160 Phan Đình
Phùng, Sài Gòn. Chẳng mấy chốc, hai người trở thành đôi bạn tâm giao.
Bách Khoa cũng là nơi tạo điều kiện cho Dohamide gặp gỡ trao đổi với các
cây bút nổi tiếng khác như nhà văn Bình Nguyên Lộc tác giả một cuốn sách gây nhiều tranh cãi “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”, học giả Nguyễn Văn Hầu nổi tiếng với các bài chuyên khảo về Nam kỳ lục tỉnh, vùng Thất Sơn Châu Đốc và cả học giả Nguyễn Hiến Lê về sau này.
Tiếp tục được sự khuyến khích và gợi ý các đề tài từ chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, Dohamide
đã viết được một loạt 36 bài trong bộ báo Bách Khoa 426 số, [cộng thêm
hai bài trao đổi của hai học giả Nguyễn Văn Hầu và nhà văn Bình Nguyên
Lộc]. Dohamide trở thành nổi tiếng như là một nhà văn hoá Chăm của tạp
chí Bách Khoa.
Toàn bộ 426 số báo Bách Khoa nay đã được số hóa (digitized)
và hoàn tất ngày 15/10/2017. Đây là công trình sưu tập của chị Phạm Lệ
Hương một thủ thư lâu năm và anh Phạm Phú Minh chủ bút Diễn Đàn Thế Kỷ,
nay được lưu trữ và phổ biến miễn phí trên Thư Viện Người Việt Online và
độc giả có thể đọc tất cả các bài viết của anh Dohamide trên tạp chí
Bách Khoa với link: https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php
*
1/ Người Chàm tại Việt Nam ngày nay. Dohamide. Bách Khoa, số 135 (15/8/1962), tr.27-32
2/ Giới lãnh đạo thôn ấp Chàm ở Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa, số 136 (1/9/1962), tr.9-13
3/ Cuộc sống gia đình của người Chàm. Dohamide. Bách Khoa 137 (15/9/1962), tr.11-16
4/ Tang lễ và hôn nhân Chàm. Dohamide. Bách Khoa 138 (1/10/1962), tr.19-21
5/ Người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 139 (15/10/1962), tr.15-18
6/ Sinh hoạt xã hội của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 140 (1/11/1962), tr.17-22
7/ Sự trưởng thành của thanh thiếu nữ Chàm. Dohamide. Bách Khoa 141 (15/11/1962), tr.17-24
8/ Đời sống gia đình của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 142 (1/12/1962), tr.31-34
9/ Tang lễ và tín ngưỡng của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 143 (15/12/1962), tr. 21-26
10/ Tín ngưỡng của người Chàm Châu Đốc. Dohamide. Bách Khoa 144 (1/1/1963), tr. 25-28
11/ Một vài nhận xét về người Chàm tại Việt Nam ngày nay: Sự hiện tồn của ngôn ngữ Chàm. Dohamide. Bách Khoa 145 (15/1/1963), tr. 63-69
12/ Một vài nhận xét về người Chàm tại Việt Nam ngày nay: Viễn ảnh cuộc sống xã hội. Dohamide. Bách Khoa 146 (1/2/1963), tr. 19-23
13/ Vài vấn đề của cộng đồng người Chàm tại Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 147 (15/2/1963), tr.15-20
[13b — Nhân loạt bài người Chàm tại Việt Nam hiện nay của ông Dohamide, góp ý về: Bước phiêu lưu của người Chàm Châu Đốc. Nguyễn Văn Hầu. Bách Khoa 153 (15/3/1963), tr.33-39 ]
14/ Kỷ nguyên Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 181 (15/7/1964), tr.13-17
15/ Hồi giáo trong buổi sơ khai. Dohamide. Bách Khoa 182 (1/8/1964), tr. 19-27
16/ Kinh Cu-ran trong sinh hoạt của người Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 183 (15/8/1964), tr. 31-38
17/ Nguyên tắc hành đạo của Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 184 (1/9/1964), tr.53-57
18/ Nguyên tắc hành đạo của Hồi giáo / cầu nguyện: sgo-lab. Dohamide. Bách Khoa 185 (15/9/1964), tr. 21-29
19/ Nguyên tắc hành đạo của Hồi giáo: Hành hương Mecca. Dohamide. Bách Khoa 186 (1/10/1964), tr.29-35
20/ Tập tục của người Hồi giáo 1. Dohamide. Bách Khoa 187 (15/10/1964), tr.47-50
21/ Tập tục của người Hồi giáo 2. Dohamide. Bách Khoa 188 (1/11/1964), tr.25-33
22/ Gia đình người Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 189 (15/11/1964), tr.37-42
23/ Nghĩa vợ chồng trong gia đình Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 190 (1/12/1964), tr. 23-27
24/ Giá thú Hồi giáo. Dohamide. Bách Khoa 191 (15/12/1964), tr. 25-30
25/ Hồi giáo ở nước ngoài và ở Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 192 (1/1/1965), tr. 31-35
26/ Hồi giáo tại Việt Nam. Dohamide. Bách Khoa 193-194 (15/1/1965), tr.53-59
27/ Cuộc sống núi rừng Cao nguyên: sắc tộc Jeh, một năm tắm một lần. Dohamide. Bách Khoa 380 (1/11/1972), tr.19-22
28/ Thân phận người sơ khai. Dohamide. Bách Khoa 387 (15/2/1972), tr.47-53
29/ Thảm trạng da đỏ. Dohamide. Bách Khoa 393 (23/6/1973), tr.23-31
30/ Những khuôn mặt sầu chai đá của châu Mỹ la tinh. Dohamide. Bách Khoa 395 (8/8/1973), tr.35-41
31/ Thử bàn lại với nhà văn Bình Nguyên Lộc về “người Châu giang”. Dohamide. Bách Khoa 396 (30/8/1973), tr.23-30
[31b — Về người Châu Giang: trả lời ông Dohamide trên Bách Khoa 396. Bình Nguyên Lộc. Bách Khoa 398 (1/10/1973), tr.43-46]
32/ Những hiện tượng huyền bí trong tập tục Chàm. Dohamide. Bách Khoa 405 (15/2/1974), tr.13-16, tr.83-86
33/ Đi vào hội nghị Hồi giáo Mecca và kiểm điểm một chuyến đi. Dohamide. Bách Khoa 411 (1/7/1974), tr.43-54
34/ Thế lực dầu lửa 1. Dohamide. Bách Khoa 418 (20/11/1974), tr.13-18
35/ Thế lực dầu lửa 2. Dohamide. Bách Khoa 419 (15/12/1974), tr. 15-22
36/ Sự thức tỉnh của các nước sản xuất dầu. Dohamide. Bách Khoa 420 (1/1/1975), tr.43-53
…
Loạt bài trên báo Bách Khoa là những tài liệu cơ bản cho tập sách “Dân tộc Chàm Lược Sử” xuất bản năm 1965 với lời tựa giới thiệu của giáo sư Nghiêm Thẩm, như “mở ra một cánh cửa sổ cho người Chăm có một tầm nhìn tổng hợp về lịch sử dân tộc gốc nguồn của mình”.
Do có được sự quan tâm của ông Sabarudine Cik, nguyên quyền
Đại sứ Malaysia tại Việt Nam lúc đó, cuốn sách này cũng đã được dịch
sang tiếng Anh “A Condensed History of Cham People” xuất bản ở Malaysia năm 1969. [1]
DU HỌC MỸ: DIỆN KIẾN CỰU TỔNG THỐNG TRUMAN
Với thành tích học vấn xuất sắc, Dohamide nhận được học bổng đi du
học Mỹ, lấy bằng Cao học M.A. về Chánh trị tại học Đại học Kansas, Hoa
Kỳ (1967).
Điều cực kỳ lý thú và không bao giờ quên đối với chàng sinh viên
người Chăm Dohamide khi được gặp vị cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S.
Truman, sinh quán tại Kansas mà ai cũng biết là vị Tổng Thống đã chấm
dứt cuộc Thế Chiến thứ Hai năm 1945 bằng quyết định ném hai trái bom
nguyên tử xuống Nhật Bản.
Sau đây là những dòng chữ của chính Dohamide ghi lại cuộc gặp gỡ đầy
xúc cảm và nhớ đời với vị cựu Tổng Thống lừng lẫy của lịch sử Hoa Kỳ:
[Hình 9]
“Có một sự việc khiến tôi – Dohamide, vô cùng phấn khởi đồng thời
cũng rất hồi hộp. Đó là dịp duy nhứt trong đời tôi đột nhiên được mời,
với tánh cách là một đại biểu sinh viên Việt Nam đến một khách sạn sang trọng ở thành phố Kansas tham dự buổi tiếp xúc của cựu Tổng Thống Harry S. Truman.
Để buổi gặp có ý nghĩa, mỗi sinh viên được dặn chào mừng vị cựu
Tổng Thống bằng tiếng nói mẹ đẻ và tự giới thiệu tên họ, tên đất nước
mình. Được mở cửa đưa vào phòng tiếp kiến, tôi đã mở lời chào mừng bằng
tiếng Việt, và làm như lời nhắc của ban nghi lễ trong phần tự giới
thiệu, nhưng không hiểu sao sau khi nói tên nước Việt Nam xong thì mường tượng như một bản năng chợt đến, tôi lại thêm “gốc Chàm”!
Do đó đáp câu hỏi của Tổng Thống liền sau đó tôi đã phải cố gắng vận
dụng tiếng Anh vốn hãy còn nặng giọng phát âm tiếng Pháp, lấy hết sức
bình sinh làm rõ gốc nguồn Chàm này, và phương cách cho dễ hiểu nhứt
không gì hơn là lấy trường hợp người da đỏ mà người Mỹ quen gọi là
“Indian” có mặt tại các khu dành riêng (reservation) hiện có tại đất
Kansas này, để so chiếu ra hình dung một người Chàm tại Việt Nam. Và quả
nhiên, hiệu nghiệm, ông cựu Tổng Thống nói ngay là tại tiểu bang Kansas
này có các nhóm người Indian cư ngụ và nhấn mạnh chánh phủ liên bang
Hoa Kỳ tôn trọng nền văn hoá cổ truyền của họ…
Đi bách bộ trên con đường ngắn vào nhà trọ, tôi nôn nao ước phải
chi có một đồng tộc Chăm bên cạnh ngay lúc đó, để cùng chia sẻ niềm xúc
động đang dâng tràn trong người, sau buổi diện kiến có nói lên được từ
“Champa” thân thương này…” [1]
Sau đó, Dohamide đã được một vị mạnh thường quân Mỹ giàu có bảo trợ
cho về sống ở một nông trại mênh mông bát ngát của tiểu bang Kansas, và
cả giúp cho Dohamide được đi thăm các khu dành riêng cho người da đỏ
cùng các cơ sở dạy nghề dành cho các sắc dân thiểu số này tại một địa
điểm lân cận.
TRỞ VỀ VIỆT NAM
Học xong chương trình Cao học / Master về Chánh trị học tại Đại học
Kansas, Hoa Kỳ (1967), Dohamide trở về Việt Nam, trở lại với cuộc đời
công chức nhưng công việc lại không liên quan gì tới ngành phát triển
sắc tộc mới hình thành.
Sẵn có mối quan hệ chặt chẽ với giới chức Mỹ, lại thông thạo nhiều
ngoại ngữ, Dohamide được ông Châu Kim Nhân lúc đó đang là giám đốc Cơ quan Tiếp Vận Trung Ương,
mời về hợp tác, sau này với chức vụ Phó Giám đốc. Tại đây, Dohamide đã
cùng với các bạn đồng sự vượt qua được mọi nghi kỵ khó khăn, và đã tạo
được mối giao hảo tốt đẹp giữa cơ quan Tiếp Vận Trung Ương VNCH và cơ
quan Tiếp vận Viện trợ Mỹ USAID / Logistics (U.S. Agency for
International Development) thời bấy giờ. [5]
GIAI ĐOẠN SAU 1975
Ngạch Đốc sự Quốc Gia Hành chánh được xem như thuộc thành phần quân
cán chính cao cấp của chánh quyền cũ nên sau 1975, Dohamide và cả người
em Dorohiêm đều phải đi trình diện tập trung cải tạo. Ban đầu là các
trại giam ở miền Nam, sau đó từ trại giam Long Thành, Dohamide bị tống
lên một đoàn xe bít bùng chở thẳng ra bến Tân Cảng, đổ xuống hầm con tàu
Sông Hương, cùng với mấy ngàn tù nhân khác, trải qua hơn hai ngày đêm
trên biển khơi ra tới Cảng Hải Phòng, để rồi từ đây Dohamide lần lượt
chuyển qua các trại lao động khổ sai ngoài miền Bắc ngót 10 năm.
Dohamide cũng không thể quên được vụ chạy giặc biên giới trong Cuộc Chiến Việt Trung 1979,
xuống các tỉnh Trung du. Dù ở trại nào, thì tình cảnh cũng giống như
mọi tù nhân khác, với ăn không đủ no đói không đủ chết, rét lạnh do quần
áo không đủ mặc, và bệnh tật thì không thuốc men nhưng may mắn là
Dohamide và cả người em Dorohiêm, ở tù lâu hơn, vẫn còn sống sót.
Năm 1984, từ trại tù miền Bắc, Dohamide được chuyển về Nam và sau đó
được tha về ở tuổi đã ngoài 50, tóc đã nhuốm bạc với sức khoẻ suy yếu. Điều
mà Dohamide coi như diễm phúc là được thấy lại đầy đủ ba đứa con bên
cạnh mẹ chúng, tuy tất cả đều ốm o do thiếu ăn. Vợ anh, một cô giáo Việt
dạy sử địa đã phải một mình hy sinh bươn chải nuôi nấng ba con, và
trong suốt mười năm tù đày ấy, chị Dohamide Phan Thị Hoàng Hoa chỉ có
thể ra Bắc “thăm nuôi” chồng có một lần. Rồi Dohamide chạnh nhớ tới lời khuyên năm xưa của một vài vị bô lão Chăm nhắc nhở anh sự việc vua Pô Rômê ngày xưa đã chết vì cưới vợ Việt.
Nhưng nay anh vẫn còn sống, vẫn còn nguyên vẹn một mái ấm gia đình để
trở về trong khi một số bạn tù Việt của anh thì có người lại không may
mắn vì người bạn đời đã sang ngang.
Vẫn Tình Nghĩa Bách Khoa
Tuy chưa hết thời gian quản chế, Dohamide một hôm đi bộ trên đường
Phan Đình Phùng, tìm tới toà soạn Bách Khoa thăm anh chị Lê Ngộ Châu.
Sau ngót 10 năm gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, vẫn vui vẻ như thuở nào.
Sau đó vài ngày, Dohamide được anh chị Lê Ngộ Châu “bồi dưỡng” (chữ của Việt Cộng từ trong tù cải tạo) cho
một bữa ăn thịt bò nhúng dấm mà Dohamide bảo là vào đúng cơn thèm của
một người vừa mới được trở lại với đời thường. Chị Lê Ngộ Châu, vẫn tinh
tế như bao giờ, biết rõ Dohamide có đạo Islam không ăn được các món
thịt heo.
Dohamide viết: “Tôi ghi lại đây bữa cơm này không phải chỉ vì cái
ngon lâu ngày mới được thưởng thức lại, mà là vì cũng nhân bữa cơm này,
tôi được gặp lại học giả khả kính Nguyễn Hiến Lê,
người mà tôi đã học hỏi được rất nhiều, trước năm 1975, trên con đường
tự học về những gì bản thân ưa thích, trong đó, có việc tìm hiểu về
Bangsa Champa cội nguồn.
Trong buổi gặp này, bác Nguyễn Hiến Lê vẫn nhắc nhở, dù có thế nào, cũng đừng bỏ cuộc,
cố gắng với sức mình và cùng khuyên anh chị em trẻ người Chăm quan tâm
nghiên cứu thêm về Champa để đóng góp tiếng nói của chính người Chăm
trong các vấn đề liên hệ tới cội nguồn cùng nền văn minh Champa.” Đây
cũng là lần gặp cuối cùng trước khi bác Nguyễn Hiến Lê qua đời, ngày
22/12/1984”. [1]
Hội Nhập hay Đi Kinh Tế Mới
Ra tù rồi, nhưng vẫn còn bị quản chế. Để khỏi phải đi vùng kinh tế
mới, do là một chuyên viên, Dohamide xin vào làm trong Công ty xuất nhập
khẩu Cholimex ở quận 5 Sài Gòn. Giám đốc Cholimex là một người gốc Hoa, nguyên là nhà thầu chuyên chở cho Nha Tiếp Vận thời VNCH,
đã biết anh Dohamide từ thời ấy. Cũng tại đây, Dohamide gặp lại một số
anh em chuyên gia cũ như Trần Bá Tước, Huỳnh Bửu Sơn, Hồ Xích Tú…
Không lâu sau đó, cũng qua giới thiệu của các bạn cũ, Dohamide được mời tham gia sinh hoạt “Nhóm Thứ Sáu trong tổ tư vấn kinh tế” của Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Dohamide đã góp nhiều công sức để hình thành cơ quan Quản trị Đầu tư IMC / Investment Management Inc. và cùng các bạn đồng sự đã xây dựng được dự án liên doanh Khu chế xuất Tân Thuận. [4]
NHỮNG NĂM Ở HẢI NGOẠI
Chín năm sau khi ra tù, phải đến tháng 3/1993, qua bao nhiêu thủ tục
giấy tờ phức tạp, qua chương trình H.O. / Humanitarian Operations,
Dohamide cùng gia đình được xuất cảnh sang Mỹ. Nơi đến định cư
đầu tiên là thị xã Frankfort thủ phủ của tiểu bang Kentucky, do Dohamide
đã được một người Mỹ quen anh trước 1975 bảo trợ, chu đáo lo cho gia
đình anh nơi ăn chốn ở buổi ban đầu.
Khi được tin Dohamide tới Mỹ, bà con đồng tộc Chăm từ các địa phương
khác rất vui mừng. Dohamide đã được họ tới tấp gọi điện thoại hỏi thăm,
có anh em còn mua vé máy bay tạo cơ hội cho Dohamide được đi thăm các
tiểu bang có cộng đồng người Chăm sinh sống: từ miền đông Washington DC,
New York, tới Chicago sang các tiểu bang miền Tây như Washington qua
các thành phố Seattle, Olympia, tới California: Sacramento, San Jose,
Santa Ana… Đi đến đâu Dohamide cũng thấy sự hình thành lớn mạnh của
những cộng đồng Chăm hải ngoại, có nơi quy tụ được tới hơn 300 gia đình
Chăm, sinh hoạt đủ các ngành nghề. Điều đáng nói là các bậc cha mẹ nay
đã nhìn xa trông rộng, biết đầu tư vào sự học cho con cái, một số đã tốt
nghiệp bậc Đại học, nhưng vẫn cố gắng giữ những tập tục cổ truyền từ
bên nhà.
Đám thanh niên Chăm nhiều nhiệt huyết, vừa có cố gắng hội nhập vào dòng chính mainstream Hoa Kỳ, vừa có ý thức bảo tồn văn hoá Champa, và họ đã tổ chức được một “Liên minh người Chăm Tị nạn – Cham Refugee League”.
Các cộng đồng Chăm hải ngoại cũng đã thiết lập được những giáo đường /
masjid riêng trên một số thành phố tại Hoa Kỳ, như: Seattle, Olympia,
Sacramento, Pomona, Santa Ana… Nay do có thêm điều kiện tài chánh, nhiều
người Chăm tại hải ngoại đã thực hiện được “giấc mơ làm haji”, đi hành hương sang tận thánh địa Mecca.
Cuối cùng gia đình Dohamide đã chọn về định cư tại Nam California
nắng ấm như vùng đất lành chim đậu. Sau một thời gian ổn định được cuộc
sống trên vùng đất mới, bắt đầu từ 2004 Dohamide đã có những chuyến về
thăm Việt Nam, như một tiếp tục cuộc hành trình Bangsa Champa, tìm về
cội nguồn.
CÁC SÁCH XUẤT BẢN
Văn Hoá:
1/ Dân tộc Chàm lược sử. Dohamide, Dorohiêm, Hiệp
Hội Chăm Hồi Giáo Việt Nam in lần thứ nhất, Sài Gòn 1965. Tủ sách Chàm
Châu Đốc tái bản lần 2 tại California, Hoa Kỳ 2016.
2/ Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa. Dohamide,
Dorohiêm, SEACAEF [Southeast Asian Culture and Education Foundation]
& VIET FOUNDATION [Volunteers for the Integration of Ethnic
Traditions], California, Hoa Kỳ 2004.
Bangsa Champa là một tác phẩm biên khảo nhưng khác với cuốn Dân tộc Chàm lược sử,
các chương viết trong sách có tính cách ghi chép về văn hóa, tìm về cội
nguồn và cuộc sống của dân tộc Chăm, đôi khi là các đoạn hồi ký mô tả
đời sống của các nhóm người Chăm đang sống rải rác đây đó tại Việt Nam
và cả ở hải ngoại.
Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa, đã được
tổ chức ra mắt tại hội trường báo Người Việt, trên con đường báo chí
Moran, Little Saigon, ngày 8/1/2005 do Bác sĩ Phạm Gia Cổn thành viên sáng lập Viet Foundation [Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions]
điều phối, có thêm phần trình diễn văn nghệ Chăm, do Dorohiêm phụ
trách, trên một sân khấu có hình ngọn Tháp Chàm uy nghi cổ kính. Một
buổi ra mắt sách rất thành công trong một hội trường có sức chứa 300
người chật hết chỗ. [Hình 10]
*
[tư liệu Phạm Gia Cổn]
*
3/ Người Chăm Châu đốc, là một công trình biên khảo thứ ba của Dohamide và Dorohiêm có nội dung đi sâu vào tập tục truyền thống người Chăm Châu đốc, tác phẩm còn đang dở dang thì Dorohiêm bất ngờ bị đột quỵ mất ngày 5/1/2019; và nay, ngày 8/11/2021, Dohamide cũng đã trở thành “người trăm năm cũ”, và tất cả chỉ còn là những trang bản thảo.
*
**
Ngoài những buổi ra mắt sách chính thức, còn phải kể tới những buổi gặp gỡ “ra mắt sách bỏ túi” với các nhóm bạn quý mến anh Dohamide.
*
[hình chụp tại Cafe Factory, Little Saigon 3/2018, tư liệu Phạm Phú
Minh]
Sách Tôn Giáo:
— Sự nghiệp Nabi Muhammad (1994)
— Đạo Islam: đức tin và các ứng dụng. Hammuđah Abđalali, Dohamide Abu Talib. Tủ sách tìm hiểu Islam, California 1995
— Xoá tan các ngờ vực về Islam. Dohamide Abu Talib, The Islamic Society of Indochina, Inc. California, Hoa Kỳ 2015.
DOHAMIDE VÀ INRASARA
Trong cuốn Bangsa Champa, nơi Chương 8, khi giới thiệu chân dung những đứa con ưu tú của Champa, Dohamide đã giới thiệu Phú Trạm, bút hiệu Inrasara đang sống trong nước, như một học giả Chăm đầy triển vọng đang vươn lên.
Dohamide viết:
“Đặc biệt nhứt và sáng chói nhứt, có thể nói là Inrasara,
là một học giả say sưa dấn thân vào sự nghiệp nghiên cứu văn hóa Chăm
được thể hiện qua văn học Chăm là công trình nghiên cứu xuất sắc, có giá
trị lịch sử, nội dung soi rọi và khai thác một cách có hệ thống kho
tàng văn học Champa từ lâu đã được một vài học giả Pháp quan tâm tìm
hiểu nhưng chỉ mới tiếp cận được từng mảnh tản mác rời rạc. Công trình
nghiên cứu văn học Chăm của Inrasara đã mang đến niềm tự hào chung cho
Bangsa Champa.
Độc đáo nhứt là Inrasara đã đơn thân độc mã hình thành và ấn hành
tập san chuyên đề xuất bản định kỳ, lấy tênTagalau. Đóng góp quý báu
của Inrasara là đã làm cho tập san Tagalau thành một nơi gặp gỡ của các
cây bút người Chăm từ những ngành nghề khác nhau, cùng chung một tâm
huyết, thể hiện các suy tư đa dạng và nhận định độc đáo của mình xuất
phát từ trong lòng xã hội Chăm.
… Inrasara, nhà thơ đồng thời là học giả trẻ người Chăm mà tiềm
năng sáng tạo phong phú và cao sâu đang độ bừng lên trong dòng chánh lưu
của xã hội Việt Nam đương thời.” [1]
*
Và đây là những dòng đầy hoài niệm, Phú Trạm Inrasara viết về hai anh em Dohamide, Dorohiêm:
“Vào Đệ Thất trường Pô-Klong, cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Dân tộc Chàm lược sử.
Không biết từ đâu nó rơi vào tay tôi, để tôi dính luôn vào nó. Ở nhà
quê có đâu sách mà đọc, vậy là cứ nhai đi nhai lại đến thuộc lòng. Năm 1992, vào Sài Gòn làm việc, tôi đạp xe qua gặp ngay anh. Lần nữa, trước khi qua Mỹ, anh mời tôi sang nhà. Anh
kiệm lời, tôi thì ít nói, thế nên chúng tôi gần như không nói gì nhiều.
Chỉ nhớ anh dặn tôi trau giồi sinh ngữ, văn hóa và lịch sử dân tộc, và
gửi gắm tâm sự: Cần nhiều tấm lòng và thái độ hơn nữa để giúp hai bộ
phận Chăm [Đông và Tây] xích lại gần nhau. Thời gian
sau đó chúng tôi thường xuyên trao đổi sách vở, thư từ. Khoảng 2004 anh
về Việt Nam ghé nhà tôi tại quận Tư, anh em hàn huyên chuyện tình cảm mà
không gì khác. Tiếc, tôi đã không có lấy tấm ảnh chung trong khi máy
ảnh ở nhà sẵn đó! Đó là lần cuối chúng tôi gặp mặt nhau.” [6]
Với tác phẩm thứ hai “Bangsa Champa, Tìm về một cội nguồn cách xa”, Inrasara viết tiếp:
“Tôi muốn mượn lời Henry Miller để nói về công trình này: đây không phải là tác phẩm, đụng đến nó là bạn đụng đến con người. Bangsa Champa nói lên đầy đủ
con người Dohamide – Dorohiêm: Đứa con của Đất, yêu tha thiết quê
hương, đau đáu nỗi niềm dân tộc, làm tất cả những gì có thể để mang quê
hương đến với mỗi đứa con Chăm, và mang Chăm về hội lại một quê chung.” [6]
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Văn kỳ thanh, tôi biết anh Dohamide từ hồi báo Bách Khoa, sau
này thân thiết với anh là do có cùng mối quan tâm tới các sắc dân thiểu
số: vấn đề người Thượng ở Tây Nguyên, người Chàm Phan Rang Phan Rí ở
miền Trung, người Chăm Islam ở Châu Đốc, Tây Ninh và Cambodia.
Từ thời làm báo sinh viên Y khoa Tình Thương và sau đó trong thời gian
quân ngũ, tôi đã có dịp tìm hiểu thêm và cả tiếp cận với những sắc dân
thiểu số.
Dohamide có đọc cuốn Vòng Đai Xanh, và sau
này là hai cuốn sách Mekong của tôi. Tôi thì đọc các bài viết và hai tác
phẩm về văn hoá Chăm của anh. Chính anh Dohamide đã viết một bài tựa có
lẽ là hay nhất cho cuốn Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng trong dịp tái bản 2014.
Vào thập niên 1990, anh Dohamide có được đọc bản thảo một bài viết của tôi “Những Đứa Con của Núi Rừng”, và sau này khi Vòng Đai Xanh tái bản lần thứ ba (2018), có thêm bài viết này nhưng với các thông tin mới được cập nhật, với nhan đề “Người Thượng Đôi Bờ”.
Từ Vòng Đai Xanh 1970
tới Người Thượng Đôi Bờ 2017
Tin VOA, 15/ 03/ 2017. 6 người Thượng ở Tây
Nguyên xin tị nạn với lý do bị đàn áp chính trị và tôn giáo vừa bị trả
về Việt Nam hôm thứ Ba, sau khi Campuchia bác đơn xin tị nạn của họ.
Cambodia Daily cho hay trong 6 người, có một bé gái dưới 10 tuổi. Nhóm
người này đã được các giới chức Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) hộ
tống qua biên giới để trở về Việt Nam, theo lời ông Sok Sam An, Phó chỉ
huy trạm kiểm soát biên giới O’yadaw ở tỉnh Ratanakiri, Campuchia…
Trong khi đó, Cambodia Daily dẫn lời người đứng đầu Dịch vụ Tị nạn
Jesuit, tổ chức hỗ trợ người Thượng ở Phnom Penh, cho biết hiện vẫn còn
143 người đang chờ quyết định về số phận của họ. Làn sóng người Thượng
mới nhất vượt biên sang tỉnh Ratanakiri bắt đầu vào cuối năm 2014. Nhưng
làn sóng này đã chậm lại sau khi xảy ra hàng chục vụ trục xuất trở về
Việt Nam. Cho tới nay, chỉ có 13 người Thượng được cấp quy chế tị nạn và
tới Philippines vào tháng 5, trong khi hàng chục người khác bị trả về
Việt Nam. [hết lược dẫn]
NGƯỜI THƯỢNG Ở VIỆT NAM
Người Thượng là tên gọi chung cho khoảng 29 sắc dân bộ lạc sinh sống
trên vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam, nói nhiều thứ ngôn ngữ, mặc
nhiều thứ y phục, chủ yếu sống bằng du canh và săn bắn. Họ quen sống
trên những ngôi nhà sàn, nuôi thêm các loại gia súc: trâu bò heo gà.
Ngày nay tại một số ít buôn bản, người Thượng vẫn còn giữ được những
nghi thức sinh hoạt bộ lạc cổ truyền, rất hấp dẫn và thu hút du khách.
Trước các cuộc chiến tranh, có thể nói người Thượng có một cuộc sống
xa xôi cách biệt hẳn với người Kinh ở đồng bằng. Nhưng cuộc sống thanh
bình ấy hầu như đã bị kết thúc kể từ Thế Chiến Thứ Hai.
Với cuộc chiến tranh Việt Pháp chín năm, lần đầu tiên người Thượng đã
phải thật sự va chạm với thế giới bên ngoài. Cuộc chiến ấy kết thúc với
sự thất trận của người Pháp. Hiệp định Genève chia đôi Việt Nam và
chánh quyền miền Nam được giao cho quyền kiểm soát cả một vùng Cao
nguyên Trung phần rộng lớn với khoảng 1,5 triệu người Thượng thuộc nhiều
bộ lạc khác nhau sống rải rác trong các vùng rừng núi phía đông dãy
Trường Sơn. Ý thức được tầm quan trọng chiến lược của vùng địa bàn Cao
nguyên, ngay từ những tháng đầu tiên, chánh phủ Sài Gòn đã tung ra hàng
loạt các nỗ lực đồng hóa người Thượng vào đời sống xã hội người Việt mà
không kể gì tới những sắc thái văn hóa đặc thù của riêng họ. Quy chế
Hoàng Triều Cương Thổ riêng biệt dành cho người Thượng có từ thời vua
Bảo Đại, đã bị ông Diệm hủy bỏ (từ tháng 3/1955). Có nghĩa là không còn
chính sách đãi ngộ và tôn trọng quyền lợi đặc biệt của những người thiểu
số. Với chính sách Dinh điền, hàng chục ngàn người dân công giáo di cư
từ miền Bắc đã được đưa lên Cao nguyên định cư, xâm phạm cả những vùng
đất đai màu mỡ đã từng là sở hữu của người Thượng qua nhiều thế hệ. Cộng
thêm với vô số những lỗi lầm khác của chánh quyền thời bấy giờ, như ra
lệnh đóng các tòa án phong tục Thượng, ngăn cấm các thổ ngữ và hạn chế
số người Thượng có khả năng và có học tham gia vào các cơ cấu hành
chánh. Thái độ bất mãn và không hợp tác của người Thượng và cả chống đối
nữa là điều rất dễ hiểu.
Vào đầu thập niên 1960, cùng với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ
vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam – tình cảnh của người Thượng hầu như đã
hoàn toàn đổi khác. Người Thượng đã tiếp đón người Mỹ bằng vòng tay rộng
mở, với những ràng buộc gắn bó nảy nở từ cả hai phía. Các cố vấn Mỹ cần
người Thượng giúp đỡ họ thu thập các tin tức tình báo về sự xâm nhập và
di chuyển của quân đội cộng sản. Trong khi đó người Thượng lại tin
tưởng rằng, những người bạn Mỹ có thể bảo vệ họ chống lại sự đe dọa từ
cả hai phía người Việt, [dù là cộng sản hay không], hơn thế nữa cả bảo
đảm nền tự trị của họ một mai khi cuộc chiến tranh chấm dứt.
Và trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam, người Thượng luôn luôn là
nạn nhân kẹt giữa các thế lực tranh chấp. Khoảng năm 1972, giới quân sự
Mỹ ước lượng rằng đã có khoảng 200 ngàn người Thượng bị chết trong các
cuộc giao tranh, với khoảng 80 phần trăm buôn ấp có tự lâu đời hoàn toàn
bị phá hủy và những bản đồ sắc tộc đã chẳng còn mang một ý nghĩa nào.
Đến năm 1975, bối cảnh chánh trị và quân sự Việt Nam càng ngày càng
suy thoái. Sau biến cố mất Ban Mê Thuột, bằng một quyết định sai lầm có
tính cách chiến lược của ông Thiệu khi bỏ Cao nguyên, với hậu quả là một
cuộc di tản đẫm máu, kéo theo sự tan rã hoàn toàn của chánh quyền Sài
Gòn.
Dưới chế độ cộng sản mới, hàng ngàn người Thượng do bị nghi ngờ đã
sát cánh chiến đấu với người Mỹ, bị hành hạ tù đày trong các trại cải
tạo, một số lãnh tụ Thượng bị hành quyết và những người dân Thượng sống
trong các buôn bản cũng bị kiểm soát rất chặt chẽ khiến cuộc sống của họ
càng ngày khốn khổ và trở nên bi đát hơn.
Một số người Thượng khác đã chọn cầm vũ khí, tìm tự do trong rừng
sâu, chống lại chế độ mới. Nhưng họ đã bị tổn thất nặng nề do nhà nước
Hà Nội có hỏa lực nhiều lần mạnh hơn. Nhóm người Thượng này đã phải chạy
sang Lào rồi Cam Bốt cuối cùng cho dù kiệt sức, họ cũng thoát được sang
được Thái Lan. Qua bao nhiêu vận động và thủ tục, lần đầu tiên có một
nhóm đông đảo 213 người Thượng được vào Mỹ và cuối cùng đi định cư ở
tiểu bang North Carolina, nơi có những người bạn cựu chiến binh Mũ Xanh
Mỹ chờ đón và giúp đỡ họ.
Vẫn tại Việt Nam, với không ngừng các đợt di dân lên Cao nguyên, cho
tới năm 2000, dân số trên các tỉnh Tây nguyên đã tăng vọt lên tới con số
4 triệu, mà đa số lại là người Kinh đến từ đồng bằng. Chỉ còn khoảng 1
triệu người Thượng với ngót 30 sắc tộc bao gồm 6 bộ lạc lớn chính như:
Jarai (320 ngàn), Rhadé (258 ngàn), Bahnar (181 ngàn), Koho (122 ngàn),
Mnong (89 ngàn) và Stieng (66 ngàn). Và người Thượng nay trở thành thiểu
số trên chính vùng đất đai vốn là quê hương của họ.
Với áp lực di dân khổng lồ và ồ ạt của người Kinh [do chính sách của
Nhà nước cộng sản hoặc từ các cuộc di dân tự phát], người Thượng hầu như
không còn không còn có được một khoảng không gian sinh tồn, họ không có
cách nào duy trì được nếp sinh hoạt du canh truyền thống vì họ đã hoàn
toàn bị tước đoạt quyền kiểm soát đất đai trước đây là của họ. Họ phải
chấp nhận sinh sống trên từng mảnh vườn nhỏ, làm thuê trên những vùng
trồng trà hay cà phê của người Kinh; họ cảm thấy bị kỳ thị và bị bóc lột
ngay trên vùng đất đai vốn là của tổ tiên họ.
Tôn giáo nguyên thủy của người Thượng là đa thần và thờ cúng những
vật linh, với nhiều nghi thức thường thấy như cảnh giết trâu hay súc vật
khác trong các buổi tế lễ. Nếp sinh hoạt ấy vẫn còn được duy trì nơi
một số ít buôn bản Thượng ở Việt Nam.
Nhưng cũng do có các đoàn truyền giáo Tây phương [Pháp và Mỹ] hoạt
động rất mạnh trên Cao nguyên từ những thập niên 1930, càng ngày càng có
đông số người Thượng theo đạo Tin lành, một số khác ít hơn theo đạo
Thiên chúa [có khoảng 150 ngàn theo đạo Thiên chúa].
Trong số một triệu người Thượng ở Cao nguyên hiện nay, ước định có
khoảng hơn 300 ngàn người theo đạo Tin lành — hay còn được gọi là Tin
Lanh Dega. Từ thập niên 1990, theo nhận định của Human Rights Watch, Tin
Lanh Dega trở nên càng ngày càng hấp dẫn đối với người Thượng không
phải chỉ có thuần đức tin tôn giáo mà nó còn được kết hợp với khát vọng
độc lập và niềm kiêu hãnh về văn hóa. Đó như một kết hợp chánh trị và
tôn giáo khá tinh vi. Trong những buổi lễ rao giảng đạo cùng một lúc cầu
nguyện cho một quê hương độc lập không phải là hiếm có.
[Dega có nguồn gốc từ tiếng Rhadé: Anak Ede Gar có nghĩa là Những Đứa Con của Núi Rừng – một từ ngữ đã được người Thượng chính-trị-hóa / politicized để chỉ chung cho các nhóm sắc dân thiểu số sống trên Cao nguyên. Nhiều người Thượng không muốn dùng từ Montagnard vì cho đó là sản phẩm của thời thực dân Pháp. Giới quân sự Mỹ trên Cao nguyên trong thời Chiến Tranh Việt Nam gọi họ là Yard, được người Thượng chấp nhận dễ dàng hơn nhưng đó cũng chỉ là một từ rút ngắn từ chữ Montagnard].
NGƯỜI THƯỢNG Ở MỸ
Vào thời điểm 1975, hầu như không có người Thượng nào có cơ hội di
tản khỏi Việt Nam cho dù trước đó họ đã cộng tác rất chặt chẽ với người
lính Mũ Xanh Mỹ trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
Trước 1986, chỉ có khoảng không quá 30 người Thượng sống rải rác trên
đất nước Mỹ. Tới khoảng năm 1987, mới có một đợt những người Thượng tị
nạn đầu tiên từ Thái Lan tới Mỹ. Họ khoảng 200 người đa số là đàn ông,
được đưa tới định cư tại tiểu bang North Carolina.
Vào tháng 12/1992, thêm một nhóm khoảng 402 người Thượng từ Tây
nguyên vượt biên sang các tỉnh Mondulkiri và Ratanakiri bên Cam Bốt.
Giữa hai lựa chọn phải trở về Việt Nam hay được phỏng vấn cho đi định cư
tại Mỹ, đa số đã chọn giải pháp thứ hai: họ gồm 269 đàn ông, 24 phụ nữ
và 80 trẻ em.
Cho tới năm 2000, con số người Thượng ở Mỹ tiếp tục gia tăng. Họ bao
gồm từng nhóm nhỏ người Thượng vào Mỹ, hoặc với tính cách tị nạn sau khi
được ra khỏi các trại cải tạo của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, hoặc
được đi theo các diện đoàn tụ ODP [Orderly Departure Program], hoặc
theo diện con lai [thường cha là lính Mỹ, mẹ là những người đàn bà
Thượng bị bỏ rơi lại từ cuộc Chiến Tranh Việt Nam trước đây], hầu hết
cũng đều được đưa tới định cư tại North Carolina.
Theo thống kê dân số năm 2000, riêng tại bang North Carolina đã có
khoảng hơn 3000 người Thượng, nơi định cư đông nhất của người Thượng bao
gồm khoảng 2000 người ở Greensboro, 700 ở vùng Charlotte, 400 ở
Raleigh.
Vào tháng 2/2001, tại Việt Nam lại xảy ra biến cố gây nhiều tiếng
vang trong giới truyền thông quốc tế và cả tạo phản ứng từ các tổ chức
bảo vệ nhân quyền: nhiều ngàn người Thượng đã đồng loạt biểu tình trên
các tỉnh Cao nguyên đòi độc lập, đòi lại đất đai của tổ tiên và đòi
quyền tự do tôn giáo. Và cũng là điều khiến mọi người khá ngạc nhiên là
các phương tiện high-tech đã được người Thượng bên trong cũng
như bên ngoài vận dụng rất hữu hiệu trong cuộc tranh đấu của họ, như
liên lạc điều hợp bằng cellular phone, email và thông tin nhanh chóng
qua các mạng lưới Internet. Nhà nước cộng sản Việt Nam đã thẳng tay trấn
áp mạnh mẽ khiến ngót một ngàn người Thượng phải chạy sang Cam Bốt. Một
số đã bị quân đội cộng sản Việt Nam truy lùng và cưỡng bách trở lại
Việt Nam. Phủ Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc [UNHCR] đã phải can thiệp, và
đa số đã bày tỏ nguyện vọng không muốn trở lại Việt Nam. Cuối cùng vào
năm 2002, thêm số 900 người Thượng nữa được nhận vào Mỹ và cũng được tới
định cư tại North Carolina. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây về một tình
cảm chia sẻ ấm áp của cộng đồng người Việt sống tại Nam California đối
với đợt những người Thượng mới tới này bằng buổi đón tiếp họ ở phi
trường và một số hiện kim tượng trưng đã được quyên góp.
Những người Thượng tới Mỹ sớm trước hoặc sau, tất cả đều có mẫu số
chung là những khó khăn của bước đầu hội nhập với một môi trường và cảnh
vực hoàn toàn xa lạ với họ. Cho dù từ những bộ lạc sắc tộc khác nhau
nhưng họ đều xuất thân từ vùng rừng núi Cao nguyên Trung phần Việt Nam.
Ngôn ngữ của các nhóm sắc tộc Thượng này có gốc gác từ hai nhóm
Mon-Khmer và Malayo-Polynesian. Đông nhất là người sắc tộc Rhadé.
Tưởng cần nên nhấn mạnh ở đây là những người Thượng Tây nguyên có
nguồn gốc chủng tộc khác hẳn và không có liên hệ gì với người Hmong ở
Lào sống phía tây dãy Trường Sơn và các sắc tộc thiểu số khác trên vùng
thượng du miền Bắc Việt Nam.
Với những người Thượng đã vào Mỹ, đa số theo đạo Tin lành, một số
khác khoảng một ngàn người theo đạo Thiên chúa. Các nhà thờ và trường
đạo dần dà trở thành định chế sinh hoạt xã hội của người Thượng sinh
sống ở Mỹ.
Cũng như với những người Chăm [sống ở Việt Nam hay bên Cam Bốt] khi chọn theo đạo Hồi, cho dù đó không phải là đạo gốc của họ, người
Thượng khi chọn theo đạo Tin lành, đối với họ có ý nghĩa như tìm tới
một sự cứu rỗi, xác định và tìm lại một thứ căn cước chủng tộc đang bị
tiêu vong và giúp họ sống còn với đầy đủ nhân phẩm và cả bảo tồn văn
hóa.
Đời sống gia đình và xã hội của người Thượng khi còn ở Việt Nam, giữ
nét mẫu hệ, con cái mang họ mẹ. Người đàn bà đóng vai chủ động và quán
xuyến mọi chuyện trong gia đình và thường chọn chồng trong cùng một sắc
tộc với mình.
Nhưng với những người Thượng di cư vào Mỹ thì nếp sống ấy đã thật sự
phải thay đổi: dù là đàn ông hay đàn bà thì cũng phải cùng nhau chia sẻ
công việc trong gia đình và ngoài xã hội, và đã có những cuộc hôn nhân
giữa các sắc tộc khác nhau, bắt nguồn từ một nét rất đặc thù của cộng
đồng người Thượng trên đất Mỹ, đó là tình trạng “trai thừa gái thiếu”,
nên đã có nhiều cuộc hôn nhân giữa người đàn ông Thượng với các phụ nữ
thuộc ngoài chủng tộc như với người Lào, Cam Bốt, Việt Nam và ngay cả
với người Mỹ.
Với thế hệ thứ nhất người Thượng tới Mỹ thường gặp rất nhiều khó khăn
trong vấn đề hội nhập, do trình độ hiểu biết rất hạn chế lại thêm sự
khác biệt quá lớn về phong tục và văn hóa nên đã có những va chạm với
cộng đồng địa phương là điều không thể tránh, ví dụ như những vi phạm
thường xuyên luật lệ ở Mỹ như say rượu lái xe, chạy xe không có bảo
hiểm, các sinh hoạt nhà cửa vệ sinh thiếu tiêu chuẩn như cảnh phơi thịt
cá khô trước nhà, đem bày hết đồ đạc cả ra ngoài sân…
Họ phải chấp nhận làm những công việc tay chân nặng nhọc trong các
hãng xưởng, cả vợ và chồng đều phải đi làm, có người phải làm hai jobs với đồng lương tối thiểu để trả tiền nhà và nuôi đám con cái ăn học.
Với những người Thượng trẻ thuộc thế thệ thứ hai, họ có khả năng
thích nghi mau chóng với nếp sống Mỹ quốc, từ trang phục cho tới cách ăn
uống fast food, nói thông thạo tiếng Anh và được tới trường đi học.
Nếu lớp người trẻ này được hướng dẫn và không bị lạc lối, số có học
sẽ có khả năng trở thành tầng lớp lãnh đạo Cộng Đồng Người Thượng Đôi Bờ
trên đất Mỹ và trên đất Việt trong tương lai.
NGÔ THẾ VINH
California, 12/2003 cập nhật 03/2017
Đọc xong Vòng Đai Xanh và bản thảo bài viết “những đứa con của rừng núi”, anh Dohamide viết thư cho tôi:
*
Đỗ Hải Minh
2533 E. Park Lane # B
Anaheim, CA 92806, U.S.A
29 – XII – 1994
Kính Anh Vinh,
Vừa nhận được sách in từ Washington D.C. gởi qua, cũng vừa nhận được 2 cuốn sách anh gửi tặng. Cảm
động nhất là khi đọc qua quyển tiểu thuyết “Vòng Đai Xanh” của anh, vì
vừa qua như anh đã rõ, cộng đồng người Chăm đã tổ chức lễ Ka tê cổ
truyền ở San Jose, nhân đó anh em Thượng có đến dự. Đối với tôi, đây là
lần đầu, sau 19 năm mới được gặp lại các anh em trong giới người thiểu
số. Tâm trạng chung, người Thượng đều tỏ ra chán chường và bất mãn, nếu
không nói là căm thù người Kinh, mà anh em nghĩ dù là Cộng Sản hay Quốc
Gia thì đều có chánh sách tiêu diệt họ. Còn lại hai anh em K’Brink và
K’Broi trước có học tại Mỹ, có quan điểm hoà dịu hơn, còn lại thì đều tỏ
ra quyết liệt.
*
Góc độ tiếp cận của anh ở đoạn mở đầu “những đứa con của
rừng núi” khá độc đáo. Tôi định sau khi xem xong, tuần tới tôi sẽ chuyển
cho anh K’Brink, để cho anh em Thượng thấy không phải tất cả người Kinh
là xấu với họ. Anh K’Brink là người đích thân về tổ chức rước anh em
Thượng cuối cùng từ trong rừng ra, sau bao nhiêu gian khổ kêu gọi,
thuyết phục.
Nhờ có anh Lê Ngộ Châu sang, tôi mới có dịp gặp anh; mong rằng từ đây anh em mình sẽ thỉnh thoảng liên lạc với nhau.
Tôi sang đây quá trễ, nên đang còn loay hoay lo ổn định cuộc sống
gia đình, nhưng đồng thời do những quan hệ trước đây với tổ chức Hồi
giáo Thế giới tại Ả Rập Saudi, tôi tận dụng thì giờ tìm hiểu sâu về Hồi
giáo – loạt sách tôi sẽ in ra trong giai đoạn này thích hợp với chính
người Hồi giáo hơn. Dù sao, xin tặng anh, mong có dịp tham khảo. Xin cám
ơn anh nhiều.
Thân,
Dohamide
NHỮNG CỘI NGUỒN BẤT AN
Dohamide với suốt một cuộc đời đau đáu đi tìm về cội nguồn, chỉ mong
sao phục hồi được nền văn hoá Champa như một căn cước của dân tộc Chăm
nhưng rồi cuối đời Dohamide cũng phải đứng trước những “Cộng đồng Chăm Đôi bờ”.
Ý thức về nhu cầu hòa nhập vào xã hội Việt Nam, Dohamide có cách nhìn ôn hoà, rộng mở và tin tưởng vào con đường văn hoá. Anh ao ước hai tập sách Dân tộc Chàm Lược sử cũng như tập Bangsa Champa được phổ biến rộng rãi trong các thế hệ thanh niên Chăm không chỉ ở hải ngoại mà cả ở trong nước, để họ không bị lôi cuốn vào phong trào “hận thù mất nước”, đang được nhóm đồng tộc Chăm cực đoan Champaka khích động theo chủ thuyết “dân tộc bản địa”
– như một khuynh hướng phục quốc và ly khai, với những vận động quốc
tế, họ kéo nhau đi trình diễn cả ở diễn đàn Liên Hiệp Quốc ở Genève.
Họ phủ nhận hướng đi theo con đường hoà bình của Dohamide, và cho
rằng Dohamide đã thoả hiệp nếu không muốn nói là đầu hàng. Điều ấy khiến
Dohamide vô cùng nặng lòng vào những năm cuối đời.
*
Người viết vẫn có những trao đổi với anh Dohamide và cả hai cùng nhau đồng ý rằng: chừng
nào Việt Nam chưa là một đất nước dân chủ, chưa có một chính sách đối
xử hợp lý, công bằng và nhân đạo với các sắc dân thiểu số, thì mọi cội
nguồn bất an – roots of unrest, vẫn còn đó. Sự ổn định bằng
trấn áp như hiện nay không phải là giải pháp dứt khoát và lâu dài cho
một quốc gia phát triển trong bối cảnh toàn cầu theo một chiều hướng bền
vững.
SALAMAT: LỜI CHÚC ĐẦU NĂM
Dohamide là một khuôn mặt đa diện và cả rất bí ẩn,
anh hoạt động không mỏi mệt trong rất nhiều lãnh vực từ tuổi thanh xuân
cho tới những năm cuối đời: từ trong bộ máy chính quyền VNCH, với người
Mỹ qua USAID, CORP, Air America, với nhà nước Cộng Sản sau 1975, với tư
cách là thành viên Nhóm Nghiên Cứu Thứ Sáu, cùng những liên hệ với thế
giới Hồi giáo nhưng đi xa hơn cả vấn đề tôn giáo.
Với người viết, trong sự tin cậy, Dohamide đã cởi mở với mọi điều, kể cả những điều mà anh gọi là tế nhị và rất nhạy cảm. Bài viết này chỉ với trọng tâm là một Chân Dung Văn Hoá của Dohamide; riêng với những phần khác vẫn trong một vùng xám, người viết xem như “ngoài phần ghi chép – off records”
để được Anh giữ và mang đi, chôn sâu dưới mảnh đất không phải là ngôi
làng Koh Taboong, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nơi anh đã được sinh ra và
lớn lên – mà là trên lục địa Mỹ châu, nơi Anh chọn để thực sự được an
nghỉ.
Một năm cũ 2021 lại sắp qua đi, gửi tới anh Dohamide, anh Dorohiêm bài viết này với tấm lòng tưởng nhớ, vẫn như thông lệ hàng năm khi tới thăm anh, không quên gửi tới anh câu chúc Tết tiếng Chăm:
Salamat Thun BaHâu
Chúc mừng Năm Mới
NGÔ THẾ VINH – 16/12/2021
Từ Cồn Tơ Lụa 2000 tới Little Saigon 2021
source: https://www.voatiengviet.com/a/dohamide-cham-bangsa-champa/6356012.html
THAM KHẢO:
1/ Dohamide, Dorohiêm. Dân tộc Chàm Lược sử. Saigon 1965. Bangsa Champa, SEACAEF & VIET Foundation 2004
2/ Dohamide (Đỗ Hải Minh): Điểm Sách Rie Nakamura 2020 Về Dân Tộc Chăm
https://www.diendantheky.net/2020/09/dohamide-o-hai-minh-iem-sach-rie.html
3/ Dohamide. Vĩnh biệt Em Dorohiêm
http://thatsonchaudoc.com/banviet2/Dohamide_DoHaiMinh/GopNhat/BK_VinhBietEmDorohiem.htm
4/ Về hai người bạn Chàm của tôi. Lê Văn Cẩn – ĐS 10 QGHC. 8.1.2019 http://thatsonchaudoc.com/banviet2/TruyenSuuTam/BK_VeHaiNguoiBanChamCuaToi.htm
5/ Vài Hàng Luyến Tiếc Bạn Đồng Môn Mới Ra Đi. Trần Ngọc Tôn http://thatsonchaudoc.com/banviet2/TruyenSuuTam/BK_TranNgocTonLuyenTiecDoHaiMinh.htm
6/ Urang Cham. Dohamide và Dorohiêm. Inrasara