Nên ứng xử với Trung Quốc như thế nào?
Đối với các nhà lãnh đạo của 2 quốc gia lớn nhất Đông Nam Á là Indonesia và Philippines – hai nền dân chủ non trẻ đang trong vòng kìm kẹp của chủ nghĩa dân túy, mỗi quốc gia đều không hạnh phúc theo cách riêng của họ.
Nhìn bề ngoài, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte và người đồng cấp Indonesia Joko Widodo, hay còn gọi là Jokowi, không chỉ lãnh đạo 2 quốc gia rất giống nhau, mà gần giống như được cắt ra từ cùng một tấm vải. Tuy nhiên, hai nhà lãnh đạo đã có cách tiếp cận theo những cách khác nhau trong mối quan hệ của họ với Trung Quốc – và những kết quả do các cách tiếp cận đó mang lại cũng hoàn toàn khác nhau.
Hình minh hoạ. Chủ tịch TQ Tập Cận Bình nâng ly cùng Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ở Hà Nội hôm 5/11/2015 Reuters
Trong khi việc quỵ lụy Trung Quốc trong suốt nhiều năm qua chưa mang lại cho Duterte một khoản đầu tư có giá trị nào cho đến nay, thì chiến lược có phẩm giá và tinh vi hơn của Jokowi đã đảm bảo được sự đầu tư tối ưu, cũng như việc phân phối nhanh chóng hàng triệu liều vaccine ngừa COVID-19 do Trung Quốc sản xuất. Có vẻ như bài học không thể chối cãi là Trung Quốc coi thường các nhà lãnh đạo nhu nhược như Duterte, nhưng sẽ thực hiện các thỏa thuận đôi bên cùng có lợi với những người như Jokowi, người luôn trước sau như một không chấp nhận bị siêu cường châu Á dọa nạt. Những năm gần đây, Duterte và Jokowi là 2 gương mặt đại diện cho nền chính trị dân túy ở Đông Nam Á. Cả hai đều từng giữ chức thống đốc tỉnh, những người đã vươn đến đỉnh cao quyền lực bằng cách vận động chống tham nhũng.
Trong khi Duterte thể hiện mình là người của nhân dân, Jokowi đã chủ động phụng sự những công dân bình thường, coi đó là trọng tâm trong chương trình nghị sự của mình. Cả hai đều đã áp dụng các chính sách cứng rắn để trấn áp tội phạm, đặc biệt là trong cuộc chiến chống ma túy. Điều quan trọng là, cả hai tổng thống đều đặt cược chương trình nghị sự phát triển của họ vào “sự hào phóng” của Trung Quốc, bất chấp sự phản đối của các lực lượng bảo thủ, những người đã cáo buộc họ hành động như “tay sai” của Bắc Kinh. Chưa hết, Jokowi đã nỗ lực phát triển một mối quan hệ tương đối hiệu quả dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau, trong khi Duterte lại tỏ ra không dứt khoát.
Trong khi Jokowi dựa vào chiến lược cân bằng giữa các cường quốc, Duterte lại cố gắng phá bỏ mối quan hệ đồng minh hàng thế kỷ giữa Philippines và Mỹ như một phần trong chiến lược xoay trục sang Trung Quốc. Là một người mới trong chính sách đối ngoại, Duterte đã vô tình để lộ con bài của mình trong một cuộc trả lời phỏng vấn của truyền thông nhà nước Trung Quốc hồi đầu năm 2016 trước khi ông tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Ông nói: “Điều tôi cần từ Trung Quốc là giúp Philippins phát triển”. Chỉ vài tháng sau, Duterte trở thành tổng thống Philippines đầu tiên chọn Trung Quốc, thay vì Mỹ hoặc Nhật Bản, làm điểm đến đầu tiên cho chuyến công du nước ngoài. Ông cũng là tổng thống Philippines đầu tiên từ chối thăm một thủ đô lớn của phương Tây – kể cả Washington – trong suốt nhiệm kỳ 6 năm của mình. Với sự ngây thơ của Duterte, Trung Quốc đã cam kết đầu tư 24 tỷ USD, bao gồm một số dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn tại Mindanao, quê nhà của Tổng thống Philippines. Những lời hứa suông này đủ để thuyết phục Duterte đưa ra những nhượng bộ lớn, bao gồm cả quyết định gây tranh cãi như không khẳng định chiến thắng lịch sử của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông ra tòa trọng tài ở La Haye.
Để làm hài lòng Bắc Kinh, Duterte thậm chí còn đe dọa sẽ hủy hợp tác quốc phòng với Mỹ và chia sẻ các nguồn năng lượng quý giá trong Vùng đặc quyền kinh tế của Philippines với Trung Quốc. Tệ hơn nữa, Duterte đã nhanh chóng lên tiếng bảo vệ Bắc Kinh khi một tàu dân quân Trung Quốc bị tình nghi suýt đánh đắm hàng chục ngư dân Philippines gần Bãi Cỏ Rong hồi năm 2019. Khi bị thúc ép chống lại việc Trung Quốc xâm nhập vào vùng biển Philippines, Duterte đã có phản ứng thể hiện sự bất lực và vô dụng. Sau 5 năm thực hiện chiến lược “thân phận nô lệ” (phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc), Duterte hầu như không nhận lại được gì từ việc xoay trục sang Bắc Kinh, ngay cả số lượng lớn vaccine ngừa COVID-19 miễn phí mà Trung Quốc hứa sẽ cung cấp vào cuối năm 2020.
Trong khi đó, Jokowi đã tiến hành chuyến thăm cấp nhà nước tới cả Washington và Bắc Kinh, cũng như cố gắng thúc đẩy hợp tác an ninh mạnh mẽ với cả 2 siêu cường, qua đó củng cố đòn bẩy chiến lược của Indonesia. Khi Trung Quốc gia tăng xâm nhập vào vùng biển ngoài khơi quần đảo Natuna của Indonesia vào cuối năm 2019, Tổng thống Indonesia không chỉ triển khai máy bay chiến đấu và hải quân mà còn đích thân tới khu vực này thị sát để nhắc nhở Trung Quốc rằng Jakarta sẽ “không thỏa hiệp” trong các vấn đề hàng hải và lãnh thổ. Mặc dù Indonesia không có tuyên bố chủ quyền trực tiếp ở Biển Đông, các nhà ngoại giao của Jokowi vẫn chính thức viện dẫn phán quyết trọng tài trong vụ kiện của Philippines để thách thức các tuyên bố bành trướng của Trung Quốc, cũng như công khai cáo buộc Trung Quốc về các hoạt động can thiệp bầu cử. Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, Indonesia đã tích cực thu hút không chỉ Trung Quốc mà cả các quốc gia đối thủ như Nhật Bản. Chiến lược đa dạng hóa có chủ định này phần nào giải thích tại sao Jakarta có thể có được các điều khoản cực kỳ thuận lợi, được cho là tốt nhất trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc, cho dự án đường sắt cao tốc Jakarta-Bandung.
Và khi Trung Quốc chểnh mảng trong việc thực hiện những cam kết trị giá hàng tỷ USD, Jokowi đã nhanh chóng tận dụng Nhật Bản để thu hút sự chú ý của Bắc Kinh. Năm 2019, Nhật Bản và Trung Quốc trở thành các nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu của Indonesia, với hàng chục dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn đang được triển khai, trong khi Jokowi để 2 “gã khổng lồ” kinh tế đối đầu với nhau.
Bài học cho các nước Đông Nam Á từ hai trường hợp trên cho thấy, về cách mà 2 quốc gia Đông Nam Á trên đối phó với một Trung Quốc ngày càng quyết đoán. Indonesia đã cho thấy rằng ngay cả các quốc gia nghèo hơn cũng có khả năng định hình hành vi của Bắc Kinh, miễn là họ không ngây thơ đưa ra những nhượng bộ lớn như Duterte. Sự dũng cảm và sắc sảo trong chiến lược của Jokowi cho thấy không phải tất cả những người theo chủ nghĩa dân túy đều giống nhau, mặc dù họ lên nắm quyền trong những hoàn cảnh khó khăn như nhau.
Việt Nam cũng là một quốc gia Đông Nam Á có nhiều vấn đề trong quan hệ với Trung Quốc. Sống bên cạnh người láng giềng khổng lồ đã làm cho tâm lý nước nhỏ ăn sâu vào trong tư duy người Việt. Nhiều quan chức Việt Nam luôn thể hiện suy nghĩ “Trung Quốc mạnh thế, mình chống thế nào được Trung Quốc”, chính vì lẽ đó đã dẫn tới các ứng xử đối với Trung Quốc mang tính tự ti, nhược tiểu. Ví dụ, trong đợt tàu Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 và tàu Viking II của Việt Nam hồi năm 2011, Phó Ban tuyên giáo Trung ương Nguyễn Thế Kỷ đi khắp nơi nói chuyện về âm mưu và hành động của Trung Quốc. Tuy nhiên, ông ta còn cho biết là mặc dù Trung Quốc “xấu xí” như vậy, nhưng Đảng ta vẫn “quyết tâm” nâng tầm quan hệ với Trung Quốc lên bước cao hơn để từ đó ràng buộc Trung Quốc không được tiếp tục xâm phạm chủ quyền của ta. Hỡi ôi, chính vì suy nghĩ kiểu đó mà Trung Quốc mới có thể lấn tới trong sự kiện giàn khoan HD 981 năm 2014. Ngày nay, quan hệ quốc tế không còn kiểu quan hệ đại bá và tiểu quốc mà là mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi. Bài học của Indonesia và Philippines góp phần giúp cho những nước như Việt Nam biết cách ứng xử trước “người khổng lồ xấu xí Trung Quốc”.
Do đó, trong quan hệ với Trung Quốc, người Việt Nam cần cởi bỏ tâm lý nước nhỏ vốn ăn sâu trong nếp nghĩ; phải đặt mình trong tư thế của một quốc gia độc lập, có chủ quyền và bình đẳng trong quan hệ quốc tế; không tự ti, sợ hãi, cúi đầu. Điều đó mới giúp Việt Nam tồn tại và phát triển trước một Trung Quốc to lớn và đầy tham vọng.
Ngô Hồng Quân – 2021-04-15
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/how-to-deal-with-china-04152021143924.html