2021: Kinh tế VN từ 1975 đến Đổi mới và nhu cầu cải cách sắp tới
Nhân đầu năm mới 2021, bài này thử tổng kết kinh tế Việt Nam từ ngày thống nhất tháng 4/1975 đến cuối năm 2020, nhìn lại những bài học quá khứ qua các giai đoạn chính của Đổi Mới, sự chững lại và các mục tiêu phát triển dài hạn mới công bố cho đến năm 2045.
Thời khó khăn sau thống nhất và Di sản của VNCH
Trước năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã biết sớm theo các qui luật của nền kinh tế thị trường và nhất là nhấn mạnh vai trò khu vực tư nhân. Đây là di sản kinh nghiệm thiết yếu nhất cho quyết định ‘Đổi Mới” năm 1986 và cải cách sau này của nước Việt Nam thống nhất.
Trong thập niên đầu sau thống nhất (1975-1985), ngoài khó khăn chính trị, Việt Nam đã áp dụng chủ nghĩa xã hội chặt chẽ trong địa hạt kinh tế qua hệ thống chính sách “bao cấp”, tập trung kiểm soát các phương tiện sản xuất và phân phối. Nền kinh tế bị hoàn toàn tê liệt và dân chúng bị đói kém khó khăn.
Áp lực kinh tế này đã dẫn đến quyết định sống hay chết là “Đổi Mới” vào năm 1986, mà cốt lõi là để cởi trói cho khu vực tư nhân.
Cuộc cải cách đã thừa hưởng di sản đã có của chính sách tự do trồng trọt ở đồng bằng Cửu Long, diện tích trồng đã được phân phối rộng và công bằng ở miền Nam trước đây, và nhất là kiến thức nông gia trong việc canh tác lúa “Thần Nông” đã có sẵn.
Đáng kể hơn là việc có thể đem kỹ thuật và giống lúa này ra đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc, khiến mức sản xuất lúa gạo cả nước tăng kỷ lục, đưa VN thành nước xuất cảng gạo thứ ba thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ.
Ngoài ra, sau 1975 nước VN thống nhất thừa hưởng trọn vẹn gia tài dầu khí từ miền Nam, trở thành tài nguyên chủ lực của nền kinh tế VN tới bây giờ… Mặc dù đã đem lại kim ngạch xuất khẩu đáng kể hàng năm cho dân chúng và là nguồn lực phát triển, đáng tiếc là một phần tài nguyên đó cũng bị mất mát do tham nhũng và đầu tư phung phí như các tài liệu điều tra mới đây về đầu tư ở Venezuela chỉ ra. Không cần nhìn đâu xa phức tạp hơn, một phần di sản khác về của cải VNCH chính là dầu khí.
Loay hoay với Kinh tế Thị trường
Ngoài tự do hóa sản xuất lúa gạo và nông nghiệp nói chung, VN đã áp dụng một loạt các cải cách hướng về nền kinh tế thị trường nhằm “cởi trói” các hoạt động sản xuất và phân phối trước kia bị chi phối bởi quá nhiều luật lệ dưới thời bao cấp.
GDP tính theo đầu người tăng từ khoảng 100 US$ (1986) lên 200$ vào khoảng đầu thập niên 1990, rồi lên 1200$ vào năm 2010 và ước tính khoảng 2800$ cho năm 2020, và VN được xếp vào nhóm quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp.
Đổi Mới cũng không tiếp diễn liên tục mà qua các giai đoạn thăng trầm do hoàn cảnh kinh tế thế giới cũng như sự thay đổi lãnh đạo chính trị trong nước. Có thể xếp ra ba thời kỳ rõ nét nhất:
Thời kỳ 1 (1986-2006): Cải cách đậm nét với những tiến bộ rõ rệt như tăng trưởng cao ở mức 6%-7% hàng năm, tăng gia nhanh xuất khẩu, ổn định lạm phát…
Thời kỳ 2 (2007-2016): Đổi Mới bị chững lại, giật lùi do ảnh hưởng của Suy thoái Lớn Thế giới 2008, cộng thêm tác động của các “nhóm lợi ích” tác oai tác quái đi ngược lại cải cách. Đây là thời của những scandal tài chính như Vinashin, Vinalines…, của những tổng công ty thua lỗ nặng nề nhưng được che chở.
Kết quả tai hại là tăng trưởng GDP giảm từ 8,2% năm 2006 xuống còn 6% vào hai năm 2009-2010, trong khi lạm phát tăng vọt từ 6,6% năm 2006 lên mức 20% năm 2008 và 11,7% năm 2010. Thời gian này cho thấy VN vẫn loay hoay trong chọn lựa một mô hình Đổi Mới bền vững, lúc thì thả lỏng vấn đề ổn định vĩ mô lúc thì quay 180 độ trở lại siết chặt sản xuất.
Thời kỳ 3 (2017-2020):Với sự thay đổi lãnh đạo ở cấp điều hành cao nhất và làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đổ vào VN mạnh mẽ, đã giúp đạt mức tăng trưởng GDP cao trở lại khoảng 7% trong ba năm 2017-2019.
Riêng năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, GDP chỉ còn được ước tính tăng độ 2,9% nhưng VN được coi là thuộc vài nước trên thế giới có độ tăng trưởng dương nhờ kiểm soát tốt cơn dịch.
Điểm nổi bật trong thời kỳ này là vai trò của FDI đã làm tăng vọt xuất khẩu cũng như dự phần không nhỏ vào độ tăng trưởng; tuy nhiên cũng làm dấy lên nỗi lo ngại sâu xa về tính bền vững và chất lượng của tăng trưởng khi lao động VN chỉ góp phần gia công rất nhỏ trong giá trị xuất khẩu. Kết quả là tổng sản lượng GDP (gross domestic product) có thể tăng cao nhưng tổng thu nhập GDI nội địa (gross domestic income) lại tăng thấp hay thụt lùi. Đây sẽ là vấn đề nghiêm trọng đặt ra cho Chính phủ VN trong những năm tới.
Nhìn lại Đổi Mới: thành quả và thách thức
Sau ba thập niên Đổi Mới, VN đã thực hiện được nhanh chóng:
- Cuộc cải cách giá cả, bao gồm: giá hàng hóa, lương bổng, tỷ giá và lãi suất;
- Ổn định nền kinh tế vĩ mô một cách tương đối;
- Nỗ lực mở cửa và hội nhập quốc tế;
- Giảm tỷ lệ nghèo đói.
Thế nhưng, phải nhận thấy các cải cách cơ cấu tương đối chậm chạp hơn, nhất là về hệ thống pháp lý; cải cách hành chính; cải cách hệ thống thuế vụ; tự do hóa thương mại trong nước.
Theo tôi, trì trệ nhất là các cải tổ sau: cổ phần hóa các xí nghiệp quốc doanh; hệ thống ngân hàng quốc doanh và xây dựng và cải tổ cơ cấu (institutional building).
Theo tôi, chúng ta cần thẳng thắn nhấn mạnh hai vấn đề cốt lõi cần cải thiện để có thể hội nhập nhanh chóng và hiệu quả hơn:
- Đó điều tiết kinh tế vĩ mô vẫn luôn là vấn đề tiên quyết để phát triển ổn định và bền vững. Chính sách này đã phải nhiều lần quay 180 độ từ chống lạm phát sang kích cầu chống suy thoái, rồi sau đó lại chuyển sang chống lạm phát một cách quyết liệt, một phần do ảnh hưởng của kinh tế thế giới.
- Chính sách đầu tư tiếp tục hướng vào khu vực quốc doanh như bao năm qua, dù là trong thời kỳ Đổi Mới, gây ra nhiều thất thoát, kém hiệu quả, thể hiện qua hệ số ICOR rất cao (số đầu tư quá cao so với sản lượng GDP tạo ra) làm cho nền kinh tế cũng như xuất khẩu thiếu tính cạnh tranh cần thiết. Các tập đoàn quốc doanh lớn tiếp tục được phân bổ nguồn lực lớn, hưởng nhiều ưu đãi và tín dụng ngân hàng, thay vì dành cho khu vực tư nhân hiệu quả hơn.
Bài học từ quá khứ và nhu cầu cho tư duy mới về phát triển
Nhìn vào lịch sử kinh tế của Việt Nam cho thấy hai điểm nổi bật của hai thời kỳ của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trước 1975 và VN sau 1975.
Dưới chế độ VNCH của miền Nam VN trong 2 thập niên ngắn ngủi từ 1955-1975, tuyên truyền xuyên tạc của giới truyền thông khuynh tả trong nước hay ngay ở Hoa Kỳ trong thời chiến tranh cho là VNCH chỉ là chế độ bù nhìn chạy theo chỉ huy của Mỹ một cách thụ động. Nhưng ngược lại, trên thực tế VNCH đã chứng tỏ khả năng lập nước và dựng nước từ ngày lấy lại chủ quyền độc lập từ thực dân Pháp cho miền Nam. Chính phủ VNCH đã tạo được một nền dân chủ pháp trị và áp dụng thành công một chính sách giáo dục nhân bản và khoa học để tạo dựng được nguồn vốn con ngưới (human capital) căn bản để thiết lập và duy trì một nền kinh tế ổn định ngay cả trong điều kiện của một trận chiến tranh khốc liệt.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, trong khoảng thời gian gấp đôi sự tồn tại của VNCH, là 45 năm (1975-2020), Việt Nam thống nhất đã thừa hưởng được nhiều di sản của VNCH và thành công hơn trong việc thay đổi bộ mặt kinh tế của cả nước. Tuy với vấn nạn tham nhũng trầm trọng và sự yếu kém khả năng kỹ trị của giới chức cầm quyền, VN đã thực hiện được hai thập niên với độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 5%-6% nhờ vào sự thông minh chăm chỉ của đại đa số dân chúng, nói rõ hơn là mồ hôi và nước mắt của họ.
Nhiều quan sát viên còn nhận xét rằng nếu có nền dân chủ pháp trị, bỏ bớt hệ thống luật lệ kiểu xã hội chủ nghĩa trói chặt khu vực tư nhân, và biết áp dụng nguồn vốn con người (human capital) như ngay dưới thời VNCH chứ không cần nhìn đâu xa, nước Việt Nam ngày nay đã có thể tăng trưởng 10%-12% hàng năm từ vài thập niên qua trong các điều kiện hòa bình và thống nhất thuận lợi hơn xa VNCH ngày xưa. Và có thể dễ dàng thoát bẫy thu nhập trung bình loại thấp trong dài hạn.
Tựu chung, Việt Nam đã lỡ hẹn với chính mình khi đặt mục tiêu cách đây 25-30 năm là sẽ trở thành một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa vào năm 2020. Nay năm đó đã vừa qua và mục tiêu còn quá xa vời, nên Chính phủ lại đặt mốc thời gian mới là năm 2045 tức là 25 năm nữa, với chiến lược tăng trưởng tiếp tục dựa trên FDI và phát triển công nghệ cao.
Như TS Trần Văn Thọ đã đề cập, kinh tế VN tuy đã có được “tăng trưởng” với độ tăng GDP cao như trong ba năm 2017-19 hay vài năm trước 2008, nhưng vẫn chưa được gọi là “phát triển” theo đúng nghĩa, do thiếu tính bền vững và thiếu chất lượng cao.
Vì các vấn đề “thắt nút cổ chai” căn bản, như hạ tầng cơ sở chưa phát triển đúng mức để thu hút FDI chất lượng, hay môi trường xấu đang trên đà hủy hoại nghiêm trọng, hay nền giáo dục ngày càng xuống dốc cần thay đổi để đón công nghệ cao và tạo sức cạnh tranh cần thiết cho xuất khẩu và nền kinh tế.
Cần cần chấp nhận ngay thể chế dân chủ pháp trị để tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế thị trường và sự phát triển nhanh chóng của khu vực tư nhân. Phải thật sự tăng cường vai trò chủ động của khu vực này thay vì tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu sản xuất và phân bổ tài nguyên qua khu vực nhà nước và các xí nghiệp quốc doanh.
Kết luận chính là mô hình tăng trưởng từ 30 năm qua, dựa trên khuyến khích xuất khẩu và đầu tư cao với FDI và đầu tư nhà nước, cần được tái cấu trúc với một chiến lược mới và một mô hình phát triển hài hòa hơn nhắm cả vào thị trường nội địa: thí dụ hài hòa hơn giữa xuất khẩu (cần thiết để có phương tiện trả nợ) và thị trường trong nước, và giữa FDI với đầu tư của tư nhân trong nước…
Để nhắm vào phát triển “nội lực”, sự phát triển của khu vực tư nhân nói trên sẽ giúp cải thiện hệ thống lương bổng, nhất là mức lương tối thiểu, để tăng mãi lực tiêu thụ trong nước; đây là đề tài đã được bàn cãi nhiều nhưng chưa có giải pháp cụ thể trừ phi có sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư nhân.
̣Đại dịch Covid-19 của năm 2020 đang chặn đứng các nguồn thu quan trọng của du lịch nước ngoài, gây ra thất nghiệp là vấn nạn khẩn cấp, cũng là nhắc nhở đúng lúc cho vai trò của nội lực trong công cuộc phát triển ở thập niên tới, trước khi theo đuổi mục tiêu dài hạn cho năm 2045.
Tiến sỹ Phạm Đỗ Chí – Gửi tới BBC News Tiếng Việt từ Florida, Hoa Kỳ – 31 tháng 12 2020
Bài thể hiện quan điểm riêng của Tiến sĩ Phạm Đỗ Chí từ Florida, Hoa Kỳ.