Tin Biển Đông – 30/07/2020
Trung Quốc điều máy bay tập trận tại Biển Đông
Bộ Quốc Phòng Trung Quốc hôm 30/7 cho biết nước này đã điều các máy bay H-6G và H-6J tham gia tập trận tại Biển Đông với “cường độ cao suốt ngày đêm”.
Hãng tin Reuters cho biết cùng ngày theo như lời của người phát ngôn Bộ Quốc Phòng Trung Quốc Nhậm Quốc Cường.
Nhân dân nhật báo của Trung Quốc ngày 30/7 cũng xác nhận buổi diễn tập không quân tại Biển Đông của Trung Quốc và cho biết đã đạt được các kết quả mong muốn.
Tin nói các máy bay oanh tạc của Trung Quốc đã diễn tập cất và hạ cánh ban ngày lẫn đêm, cũng như diễn tập tấn công các mục tiêu trên biển, tấn công tầm xa.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói các cuộc tập trận nằm trong chương trình huấn luyện phi công thường niên, nhưng không nói rõ thời điểm và khu vực của các hoạt động tập trận này.
Từ năm 2014, Trung Quốc đã cho bồi đắp các đảo nhân tạo mà nước này chiếm đóng tại Biển Đông để xây các căn cứ quân sự, kho nhiên liệu, bãi đỗ máy bay.
Mỹ – Australia cáo buộc TQ vi phạm
quy tắc quốc tế trên Biển Đông
Các quan chức cấp cao của Mỹ và Australia cáo buộc Trung Quốc vi phạm quy tắc quốc tế trên Biển Đông và cam kết duy trì tự do hàng hải và pháp quyền trong khu vực.
Theo AP, Mỹ và Australia ngày 28/7 đã chỉ trích Trung Quốc vì cách hành xử ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và không hành động nhanh chóng để kiểm soát dịch Covid-19. Hôm qua, các quan chức cấp cao từ 2 bên đã gặp gỡ trong khuôn khổ Hội nghị Tham vấn ngoại giao – quốc phòng hàng năm Australia – Mỹ lần thứ 30, diễn ra ở Washington.
Đại diện của Mỹ gồm Ngoại trưởng Mike Pompeo và Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper đã cùng những người đồng cấp Australia gồm Ngoại trưởng Marise Payne và Bộ trưởng Quốc phòng Linda Reynolds cáo buộc Trung Quốc vi phạm quy tắc quốc tế ở Biển Đông. Các quan chức này cam kết sẽ duy trì tự do hàng hải và pháp quyền ở khu vực, cũng như tình hình tự ở Hong Kong.
Ông Pompeo nói rằng Mỹ và Australia đang đối mặt với các cuộc khủng hoảng cần xử lý ngay bao gồm dịch Covid-19 và tham vọng của Trung Quốc, cụ thể là các động thái gây hại ở Ấn Độ – Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
Vào cùng ngày, Mỹ và Australia thúc giục Hong Kong cam kết về một cuộc bầu cử hội đồng lập pháp (LegCo) “tự do và công bằng”, trong khi Liên minh châu Âu (EU) và Anh cam kết sẽ theo dõi sát sao cuộc bầu cử dự kiến được tiến hành vào ngày 6/9.
Những kêu gọi trên được đưa ra sau khi truyền thông Hong Kong đưa tin rằng chính quyền đặc khu có thể hoãn tổ chức cuộc bầu cử trong vòng 1 năm vì diễn biến phức tạp của dịch Covid-19.
Trong một thông báo chung giữa Ngoại trưởng Pompeo và người đồng cấp Australia Marise Payne, hai quan chức cho biết họ “nhấn mạnh sự ủng hộ với người dân Hong Kong để bầu ra các đại diện của hội đồng lập pháp thông qua một cuộc bầu cử công bằng, tự do, đáng tin cậy và hòa hình, vào ngày 6/9.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Anh Dominic Raab trong một cuộc điện đàm với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị, nói rằng London sẽ “theo dõi sát sao cuộc bầu cử LegCo Hong Kong vào tháng 9”. Ngày 28/7, Hội đồng Liên minh châu Âu ra một tuyên bố thông báo EU sẽ theo sát tình hình chính trị ở Hong Kong trước thềm cuộc bầu cử LegCo vào ngày 6/9.
Ngoài ra, các nước EU cũng cam kết sẽ xem xét tác động của luật an ninh quốc gia mà Trung Quốc thông qua đặc khu lên các chính sách tị nạn, di cư, thị thực và cư trú.
Tuy có một số điểm chung về quan điểm với Trung Quốc, tuy nhiên, Ngoại trưởng Australia Payne hôm qua nói rằng Canberra không có ý định “làm tổn hại” mối quan hệ “quan trọng” với Bắc Kinh.
Bà Payne nhấn mạnh Australia sẽ ra quyết định dựa trên lợi ích quốc gia của nước này và nhấn mạnh không phải lúc nào Canberra và Washington cũng đồng tình trong mọi việc.
Đánh giá nguy cơ nổ ra xung đột Mỹ – TQ ở Biển Đông
So với vấn đề Đài Loan, vùng Biển Đông có khả năng kích động hành động quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc cao hơn.
Việc gia tăng các vụ va chạm giữa Bắc Kinh và Washington có thể vô tình leo thang thành xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc. Khi quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Mỹ xấu đi và rớt xuống mức thấp nhất kể từ năm 1979 (khi 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao) thì một cuộc xung đột quân sự giữa 2 nước không còn là một khả năng quá xa xôi.
Lần giao tranh trực tiếp cuối cùng giữa 2 nước là trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), khi hoạt động thương mại song phương còn lẻ tẻ và quan hệ ngoại giao giữa 2 nước chưa được thiết lập. Khi ấy Trung Quốc can thiệp là do e sợ viễn cảnh một bán đảo Triều Tiên thống nhất nhưng lại đi theo Mỹ, ngay trước thềm cửa nhà mình.
Rủi ro sự cố trên Biển Đông
Tuy nhiên, trường hợp Biển Đông thì lại khác. Giới chuyên gia cho rằng khác với Chiến tranh Triều Tiên, một cuộc đụng độ trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc có khả năng sẽ bắt nguồn từ một sự cố hơn là một hành vi tấn công quân sự cố ý của một trong hai bên.
Michael Austin, một nhà nghiên cứu tại Viện Hoover (Đại học Stanford) ở California (Mỹ) nói: “Có đảo tranh chấp, có va chạm, có hăm dọa, tình hình bị làm xấu đi. Bắc Kinh và Washington đều không muốn chiến tranh nhưng tôi e rằng họ có thể lỡ mắc sai sót nguy hiểm”.
Biển Đông là một trong những biển giá trị nhất thế giới. Mỗi năm, 1/3 hoạt động vận tải hàng hải toàn cầu đi qua đây, với lượng hàng hóa thương mại trị giá hơn 3.000 tỷ USD. Các ngư trường phong phú cùng tiềm năng cực lớn về dầu khí là một trong nhiều lý do khiến nơi đây trở thành một trong những khu vực bị tranh chấp nặng nề nhất thế giới.
Hải quân Mỹ với các căn cứ ở Nhật Bản, Philippines, và Guam, thống trị nhiều nơi ở Thái Bình Dương. Trong khi đó, Trung Quốc đã cố gắng trong thời gian dài chống lại ảnh hưởng này bằng chiếm đóng (trái phép) nhiều đảo ở Biển Đông hoặc tự tạo ra (trái phép) các đảo nhân tạo, sử dụng các yêu sách lịch sử (phi pháp) đối với khoảng 90% Biển Đông.
Bút lục về các sự cố quanh các đảo ở Biển Đông là lý do vì sao Austin đã lựa chọn Biển Đông là điểm nóng trong kịch bản xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc mà ông xây dựng trong cuốn sách của mình mang tên “Asia’s New Geopolitics” xuất bản hồi tháng 4.
Các thí dụ được nêu ra bao gồm năm 2001, khi một máy bay trinh sát Mỹ và một chiến đấu cơ Trung Quốc va chạm ở vị trí cách quần đảo Hoàng Sa 160km. Một phi công Trung Quốc thiệt mạng trong vụ va chạm này, còn máy bay Mỹ buộc phải hạ cánh khẩn cấp ở tỉnh Hải Nam (Trung Quốc).
Hải quân Mỹ thường xuyên thực hiện các hoạt động tự do hàng hải qua các khu vực mà Trung Quốc cố kiểm soát, khiến lực lượng hải quân 2 bên nhiều khi ở rất sát nhau. Vào tháng 10/2018, một khu trục hạm Trung Quốc tiến sát, chỉ cách một chiến hạm của Mỹ có 40 m và hai tàu suýt va chạm nhau. Austin hỏi: “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một tàu chiến Mỹ bị chìm?”.
Theo Austin, từ góc nhìn của Mỹ, một cuộc chiến với Trung Quốc vì Biển Đông là dễ hiểu hơn so với vì vấn đề Đài Loan (một điểm nóng khác trong quan hệ 2 nước).
Chính quyền Mỹ đã thể hiện quan điểm cứng rắn hơn với Trung Quốc sau khi Ngoại trưởng Mỹ vào hôm 13/7/2020 ra thông cáo bác bỏ hầu hết các yêu sách của Bắc Kinh đối với Biển Đông, đồng thời tuyên bố rằng Mỹ sẽ “không cho phép Bắc Kinh coi Biển Đông như đế chế của mình trên biển”.
Các nhà bình luận diều hâu có dính líu đến quân đội Trung Quốc đã đi xa hơn các tuyên bố mang tính ngoại giao của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Hồi tháng 12/2018, tướng quân đội Trung Quốc về hưu Luo Yuan gợi ý dùng tên lửa để đánh một hoặc hai tàu sân bay Mỹ ở Biển Đông và cho rằng điều này sẽ đập tan nhuệ khí của Mỹ trong khu vực.
http://biendong.net/goc-nhin-moi/36069-danh-gia-nguy-co-no-ra-xung-dot-my-tq-o-bien-dong.html
Đồng thuận mới tại Biển Đông cần biến thành
hành động thực tế: GS Carl Thayer
Giang Nguyễn
Giang Nguyễn: Vào ngày 28 tháng 7, Mỹ và Úc có cuộc họp 2+2 giữa Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Ngoại giao của hai nước, và một trong các vấn đề được bàn đến là việc Biển Đông. Chúng ta có thể mong chờ gì từ cuộc họp này? Khả năng liên minh mới có thể thay đổi cục diện hiện nay hay không?
GS. Carl Thayer: Báo chí Úc đưa tin là Mỹ đang có những gợi ý với Úc để cùng tham gia tuần tra bảo vệ tư do hàng hải. Mỹ dùng cụm từ “tự do hàng hải” một cách giới hạn hơn, cho những tuần tra hoạt động nhằm thách thức yêu sách hàng hải quá đáng. Và sự việc hôm nay (ngày 28 tháng 7) xoay quanh việc tiếp cận trong vòng 12 hải lý của các thực thể Trung Quốc trên Biển Đông.
Úc bấy lâu nay từ chối hoặc tỏ ra hờ hững với đề nghị này vì Úc có một định nghĩa về tự do hàng hải đối với những vùng biển khơi. Trong hồi ký của nguyên thủ tướng Malcolm Turnbull có dẫn rằng “Ông không thể tin tưởng chính quyền Obama, nếu Úc nhận lấy vị trí tiên phong và rồi bị chính phủ Obama bỏ rơi.’ Và tôi nghĩ là lo ngại đó cũng có với ông Trump.
Úc luôn luôn sẵn sàng hợp tác với Mỹ trong hoạt động tập trận hải quân, và họ đã làm như thế hai lần trong năm nay. Tàu hộ vệ tên lửa HMAS Paramatta cùng tàu tuần dương tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill tham gia tập trận bắn đạn thật cũng như những hoạt động khác. Và gần đây nhất có cả Nhật Bản tham gia. Đó là điều lý thú đối với Úc. Nói cho cùng, Úc không muốn là quốc gia duy nhất trong vùng hoạt động tuần tra do hàng hải với Mỹ qua những đảo nhân tạo được Trung Quốc bảo vệ, hoặc trong vòng 12 hải lý.
Giang Nguyễn: Diễn tiến vừa nêu và tuyên bố mạnh mẽ gần đây có thể thay đổi cục diện hiện nay hay chỉ là những tuyên bố suông?
GS Carl Thayer: Úc đã đi xa hơn trước và nêu đích danh Trung Quốc về việc tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa. Úc đã nói “không, quần đảo này đang trong vòng tranh chấp; Philippines và VN cũng bác bỏ điều đó.” Tuyên bố này rất khiêu khích đối với Trung Quốc.
Malaysia trước tiên có đệ trình (lên Liên Hiệp Quốc) về thềm lục địa mở rộng dẫn đến một loạt các công hàm được đến Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lực địa của Liên Hiệp Quốc. Sau đó đến Philippines, đến Việt Nam, đến Indonesia, đến Mỹ và Úc. Tất nhiên Trung Quốc bác bỏ tất cả những công hàm đó của các nước.
Úc đã đi xa hơn trước và nêu đích danh Trung Quốc về việc tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa. Úc đã nói “không, quần đảo này đang trong vòng tranh chấp; Philippines và VN cũng bác bỏ điều đó.” Tuyên bố này rất khiêu khích đối với Trung Quốc. – GS Carl Thayer
Hiện nay đang có đồng thuận giữa 4 quốc gia ven biển. Tôi muốn dùng từ này hơn là các nước có tuyên bố chủ quyền bởi vì Indonesia không phải là một nước có tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, Brunei thì yên lặng lâu nay, và rồi Hoa Kỳ và nay thêm Úc. Cả 4 nước đều thống nhất có cùng quan điểm mạnh mẽ bác bỏ mọi cơ sở để tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Trong ngày Úc có đệ trình lên Liên Hiệp Quốc, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, Mike Pompeo, đọc bài diễn văn quan trọng kêu gọi các nước tự do chống lại sự ngang ngược của Trung Quốc.
Giang Nguyễn: Việt Nam có thể tận dụng được gì trong tình thế hiện nay khi mà dường như các nước trong khu vực đang có tiếng nói giống nhau vể tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc? Cụ thể Việt Nam nên tiếp tục làm gì khi đảm nhận vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN năm nay?
GS Carl Thayer: Việc các quốc gia cùng đứng một phía về mặt pháp lý có nghĩa rằng tại các cuộc họp đa phương hay đa quốc gia, kể cả toàn bộ mạng lưới thể chế ASEAN, Trung Quốc có thể bị chỉ trích với một mặt trận thống nhất bác bỏ yêu sách của họ. Và điều này có thể thế hiện trên văn bản.
Việt Nam, là chủ tịch luân phiên ASEAN, cũng là ủy viên không thường trực của Hôi đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, đã đưa ra hai sáng kiến mà các quốc gia khác nên ủng hộ: Thứ nhất, triệu tập một cuộc tranh luận về việc tuân thủ Hiến chương LHQ. Họ không đi vào chi tiết nhưng bạn có thể hiểu ý. Thứ nhì, là tổ chức một cuộc họp chính thức giữa Liên Hiệp Quôc và ASEAN trong phạm vi là một hiệp hội khu vực.
Và bây giờ chúng ta đã có tuyên bố của chủ tịch hội nghị thượng đinh ASEAN thứ 36, và được tất cả đồng ý, là Công Ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) là nền tảng giải quyết những tranh chấp hàng hải. Đấy là những việc VN có thể chủ động.
Nhưng trước khi chúng ta kết luận rằng đây chỉ là những ngôn ngữ chính trị ngoại giao, đúng nó là thế, nhưng cũng có những biện pháp thiết thực. Tôi muốn nói đến Bản ghi nhớ giữa Mỹ và Việt Nam nhằm hỗ trợ ngư dân Việt Nam khi bị đe dọa.
Giang Nguyễn: Trung Quốc đã phản ứng cả bằng lời và tiến hành tập trận nhiều hơn với qui mô hơn tại Biển Đông; điều này có thể dẫn đến xung đột tại khu vực này giữa hai phía? Nếu có thì mức độ đến đâu?
GS Carl Thayer: Theo nhận xét cá nhân, xác suất xung đột vũ trang thấp, bởi vì những gì chúng ta chứng kiến cũng không là mới.
Chúng ta thấy, ngoài việc quấy rối và đe dọa từ Trung Quốc và cái mà tôi gọi là chu kỳ của hành động và phản ứng, là chính phủ Trump đã mở rộng đáng kể hoạt động tuần tra tự do hàng hải, và họ đã liên tục tuần tra. Sau khi tàu USS Theodore Roosevelt bị mắc covid, Trung Quốc đã tuyên truyền nói là Mỹ yếu, không quản lý được tàu của mình. Rồi thì Mỹ triển khai 3 chiếc tàu sân bay qua một loạt những cuộc tập trận. Rồi họ thêm Nhật Bản và Úc vào nữa để cho thấy là không phải vì covid và USS Theodore Roosevelt, mà họ vẫn có khả năng phô trương sức mạnh quân sự.
Một sự thay đổi là họ đã dời máy bay ném bom B-52 cũ khỏi đảo Guam, và thay thế với máy bay B-1 tàng hình. Họ cũng có một chương trình toàn cầu ảnh hướng đến Biển Đông, cho máy bay ném bom chiến lược từ Hòa Ky, mãi từ Louisiana, đến Biên Đông, tham gia vào lúc các tàu đang tập trận.
Nhưng cho dù họ tập trận trong cùng một biển, nhưng không phải là họ tập trận bên cạnh nhau, họ tránh xa.
Giang Nguyễn: Tác động của những diễn biến gần đây đối với việc đàm phán Bộ Quy Tắc Ứng Xử tại Biển Đông COC ra sao?
GS Carl Thayer: Chúng ta không thấy gì hết, họ đã thừa nhận điều đó vì dịch Covid. Trong nửa đầu của năm nay, hai cuộc họp của nhóm làm việc chung để thực thi Tuyên bố ứng xử tại Biển Đông, và những viên chức cao cấp vẫn chưa gặp mặt. Đầu tháng 7, viên chức cao cấp của Việt Nam, ASEAN và Trung Quốc có gặp để lên lịch trình, nhưng chưa được thông báo.
Việc thứ nhì là, Indonesia cổ vỏ việc không họp trực tuyến, mà phải họp trực tiếp. Việc đó cũng có lý.
Tôi cũng đã có một buổi họp mặt trực tuyến với một viên chức cao cập, ông là chủ tịch học viện ngoại giao và đại sứ chỉ định tại Nam Hàn. Ông đã thẳng thắn nói, hãy quên thời hạn đi.
Tháng 8 năm 2018, một văn bản dự thảo của cuộc đàm phán được công bố, Ngoại Trưởng Trung Quốc Vương Nghị tuyên bố một cách đơn phương là sẽ hoàn tất trong 3 năm. Suốt một thời gian dài ASEAN không đính chính điều này, nhưng qua tuyên bố của họ có nói là lịch trình sẽ do hai bên thoả thuận.
Nói một cách khác, là chúng ta còn chặng đường dài rất dài. Và khi một viên chức cao cấp nói với chúng ta, thôi quên đi thời hạn… Vấn đề là, thường họ phải có ba phiên đọc văn bản dự thảo. Ho đã có một phiên, tháng 8 năm 2019. Tháng 10 năm ngoái, ngay trước khi Việt Nam nhận vai trò chủ tịch, đã có
một cuộc họp ở Đà Lạt, và Trung Quốc tuyên truyền cho đây là cuộc họp thứ nhì. Nhưng Việt Nam đã phản bác việc này. Cho nên chúng ta vẫn còn hai phiên đọc văn bản dự thảo nữa.
Rồi chúng ta vẫn chưa xác định khu vực địa lý, cơ sở pháp lý và vai trò của các bên thứ ba. Đây là những quốc gia ngoài khu vực mà Trung Quốc cho là không được tham gia đàm phán. Tôi nghĩ là khi có bốn thành viên chính của ASEAN đứng trên cùng quan niệm pháp lý, điều đó sẽ gây nên khó khăn trong việc đàm phán Bộ Quy Tắc Ứng Xử vì Trung Quốc sẽ không đồng ý.
Và cuối cùng, mọi người cũng rất mệt mỏi. Ai cũng muốn có Bộ Quy Tắc Ứng Xử, đó là điều thiết yếu. Nhưng họ không muốn đi đến đích để chỉ có một tờ giấy vô giá trị, như tuyên bố về Ứng Xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) đã được thông qua và kêu gọi tự chế, không đưa người đến những hòn đảo không có người sinh sống. Để rồi Trung Quốc đưa người đến 7 đảo nhân tạo như vậy. Và không có ai ngăn cản được.
Lúc đầu, trên dự thảo COC với Trung Quốc mà tôi được xem, họ đã muốn loại trừ Mỹ và các quốc gia khác ra, để chỉ thỏa thuận giữa Trung Quốc và ASEAN mà thôi.
ASEAN sẽ phải tìm cách thoát ra khỏi thực trạng này và việc đó sẽ tạo thêm khó khăn.
Giang Nguyễn: Với những diễn tiến trước mắt, ông sẽ chú ý vào điều gì?
GS Carl Thayer: Ngoại trưởng Pompeo trong tuyên bố ngày 13 tháng 7 có nói rằng Mỹ sẽ sát cánh cùng đối tác tại Đông Nam Á. Có 3 kịch bản: Họ sẽ đi một mình và Mỹ hỗ trợ ngoại giao, hoặc là Mỹ sẽ đơn phương hành động như họ đã làm ở Malaysia khi họ gửi hai tàu chiến vào lúc Trung Quốc quấy rối thăm dò rồi tiến hành khảo sát. Cuối cùng Mỹ không can thiệp thì mọi chuyện rồi cũng lắng xuống. Cái mà chúng ta cần xem là với vai trò chủ tịch ASEAN, của Việt Nam, các thành viên ASEAN có nhất trí được họ muốn gì từ Mỹ và các quốc gia khác. Qua Bản ghi nhớ giữa Mỹ và Việt Nam chúng ta thấy, Mỹ sẵn sàng hỗ trợ.
Họ (thành viên ASEAN) có thể phối hợp ngoại giao để mỗi khi Trung Quốc bước vào phòng họp, tại LHQ hay tại ASEAN, Trung Quốc luôn gặp những chỉ trích và bác bỏ về chủ quyền ở Biển Đông?
Liệu chúng ta sẽ chứng kiến được một sự phối hợp đi xa hơn ngoại giao và ngôn từ, để có nhũng hành động thực tế ngoài những cuộc tập trận. Họ sẽ phải sáng tạo.
Giang Nguyễn: Cảm ơn ông vì đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn này