Tin Biển Đông – 19/05/2020

Cac Bai Khac

No sub-categories

Mỹ cử nhiều tàu ngầm tới giám sát an ninh Biển Đông – Lục Du

Hôm 18/5, American Military News (AMN) đưa tin, lực lượng tàu ngầm Mỹ tại Hạm đội Thái Bình Dương tuyên bố rằng, tất cả các tàu của họ đang đồng thời tiến hành “các hoạt động ứng phó dự phòng” ở Biển Đông, xua tan lời đồn rằng hoạt động của Hải quân Mỹ đang bị đình trệ bởi virus Vũ Hán.

Lực lượng này cho biết thêm, các hoạt động đang thực hiện là để hỗ trợ cho chính sách “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và cởi mở” của chính quyền Trump, đồng nghĩa với việc chống lại chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh tại Biển Đông.

Ít nhất 7 tàu ngầm, và có khả năng nhiều hơn, bao gồm tất cả 4 tàu ngầm tấn công tại đảo Guam, 1 tàu ngầm USS Alexandria tại San Diego và nhiều tàu ngầm tại Hawaii, đang tham gia vào hoạt động này.

Ông Blake Converse, chỉ huy lực lượng Hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương, cho biết: “Các hoạt động của chúng tôi là một minh chứng cho sự sẵn sàng bảo vệ lợi ích và quyền tự do của chúng tôi theo luật pháp quốc tế”.

AMN bình luận, động thái này thể hiện quan điểm của Lầu Năm Góc rằng các hoạt động của quân đội Hoa Kỳ sẽ luôn linh hoạt và khó đoán định trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc và Nga.

Các tàu ngầm tấn công của Mỹ triển khai ở Biển Đông lần này đều có khả năng thực hiện các giám sát bí mật, và tàng hình trước khi đánh chìm tàu đối phương bằng ngư lôi hoặc tên lửa hành trình Tomahawk.

Thời gian qua, chính quyền Trung Quốc đã bị truyền thông quốc tế cáo buộc rằng họ lợi dụng tình hình Mỹ và các nước đồng minh đang bận đối phó với dịch viêm phổi Vũ Hán để gia tăng các hoạt động quân sự tại các đảo nhân tạo mà họ tự ý bồi đắp trên Biển Đông và bắt nạt các quốc gia khác trong khu vực.

Mặc dù bận đối phó với dịch Covid-19, nhưng chính quyền Trump vẫn luôn để mắt tới các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông. Vào tháng trước, Mỹ đã điều hai tàu chiến đi qua vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để khẳng định quyền tự do hàng hải.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Mark Esper cho biết, mặc dù bận tham gia chống dịch viêm phổi Vũ Hán nhưng “chúng tôi vẫn tập trung vào các nhiệm vụ bảo vệ an ninh trên khắp thế giới”.

“Nhiều quốc gia đã và đang bận khắc phục những mất mát do đại dịch [Covid-19] gây ra, trong khi đó, các đối thủ chiến lược của chúng ta [lại] đang cố gắng khai thác cuộc khủng hoảng này để thủ lợi riêng cho họ bằng việc khai thác thiệt hại của những nước khác”, ông Esper nói.

“Trong suốt thời gian dịch bệnh diễn ra, chúng tôi tiếp tục chứng kiến hành vi hung hăng của quân đội Trung Quốc ở Biển Đông, từ việc uy hiếp một tàu hải quân Philippines đến đánh chìm một tàu cá Việt Nam, cũng như đe dọa các quốc gia khác tham gia khai thác dầu khí ngoài khơi [vùng biển này]”, Bộ trưởng Esper nói tiếp.

Ông Esper cho biết thêm, việc Mỹ điều hai tàu chiến tới Biển Đông vào cuối tháng trước là để “gửi một thông điệp rõ ràng tới Bắc Kinh rằng chúng tôi tiếp tục bảo vệ quyền tự do hàng hải và thương mại cho tất cả các quốc gia lớn và nhỏ”.

https://www.dkn.tv/the-gioi/my-cu-nhieu-tau-ngam-toi-giam-sat-an-ninh-bien-dong.html

 

Chuyên gia Damen Cook:

Căn cứ Du Lâm trong chiến lược hải quân của TQ

Căn cứ tàu ngầm đảo Hải Nam là một căn cứ quân sự được người ta cho là phục vụ cho tàu ngầm của Hải quân Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Căn cứ này nằm ở bờ đông của đảo Hải Nam, thuộc hạm đội Nam Hải, có các cửa vào cho tàu ngầm với chiều rộng hơn 23 m. Đây là một trong những căn cứ quân sự quan trọng bậc nhất của Trung Quốc nhằm phục vụ âm mưu thôn tính Biển Đông.

Trong chiến lược của Hải quân Trung Quốc nói chung, Hạm đội Nam Hải nói riêng, Biển Đông giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Để triển khai chiến lược thâu tóm Biển Đông, Trung Quốc đã tập trung phát triển căn cứ Du Lâm. Các trang bị khí tài, các vị trí phòng thủ đã được triển khai và sẵn sàng hoạt động – bao gồm các văn phòng hành chính, hệ thống kho đạn dược, các công sự, lô cốt … Hầu hết lực lượng tàu ngầm của Hạm đội Nam Hải Trung Quốc đã ẩn mình sâu trong các dãy núi. Nhờ sự kết hợp của các hạm tàu mặt nước, các tên lửa diệt hạm và tên lửa phòng không, cũng như các tàu ngầm thông thường và tàu ngầm hạt nhân, giá trị chiến lược của căn cứ Du Lâm ngày càng tăng lên. Trên cơ sở đó, Trung Quốc cũng ngày càng phô trương sức mạnh quân sự ở Biển Đông và các tuyến đường biển xung quanh.

Về mặt chiến lược, căn cứ Du Lâm là sự bổ sung hoàn hảo cho các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc trên Biển Đông. Các hòn đảo nhân tạo đều được trang bị vũ khí, khí tài để thực hiện chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập (A2/AD) để ngăn cản hoặc kìm chân Mỹ nếu nước này tiến vào phạm vi ảnh hưởng của Bắc Kinh. Các loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa lớp Tấn ở căn cứ Du Lâm có thể ngăn cản Mỹ tấn công Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân, cũng như ngăn cản bất cứ cuộc xung đột nào. Cuối cùng, Du Lâm không chỉ có các tàu ngầm hạt nhân, mà còn có các hạm tàu mặt nước, tàu ngầm tấn công thông thường, thậm chí là cả tàu sân, buộc lực lượng hải quân các nước khác trong khu vực phải dè chừng các hành động hung hăng của Trung Quốc và chịu đựng các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc. Nhiệm vụ kép của Du Lâm – ngăn chặn phương Tây và cưỡng chế các nước còn lại – càng làm tăng giá trị chiến lược của căn cứ này.

Phía Đông căn cứ Du Lâm là một bến cảng nhân tạo được bảo vệ cẩn mật, với cơ sở hạ tầng quân sự rộng hơn 25 km2. Căn cứ này có thể trú đóng các tàu ngầm và tàu mặt nước (cùng hầu hết các trang thiết bị cần thiết), các hệ thống vũ khí phòng thủ, các phương tiện vận chuyển và kho bãi đạn dược, cùng các trụ sở hành chính phục vụ cho công tác chỉ huy quân sự. Việc xây dựng căn cứ này đã được bắt đầu vào năm 2000 và đến nay vẫn chưa hoàn thành. Khu phức hợp quân sự kéo dài này cho thấy gần 20 năm nỗ lực của Trung Quốc. Địa thế tự nhiên của vịnh Tam Á đã bảo vệ cho căn cứ này bằng một ngọn núi hùng vĩ. Trung Quốc đã không bỏ qua lợi thế này khi tận dụng ngọn núi thành nơi ẩn giấu các vũ khí răn đe hạt nhân.

Ngoài những thành lũy tự nhiên và các công sự nhân tạo, căn cứ Đông Du Lâm có một loạt các vũ khí phòng thủ diện và điểm. Có ít nhất 05 trận địa tên lửa đất đối không được bảo vệ kiên cố trong công sự. Hai trận địa có kích thước khoảng 55m, trong khi ba trận địa còn lại có kích thước lên đến 78m, cho thấy hai loại tên lửa khác nhau đã được triển khai để tạo thành lưới hỏa lực nhiều tầng bảo vệ căn cứ Du Lâm. Để chống lại các mối đe dọa từ hướng biển, các tên lửa hành trình chống hạm được bố trí nằm dọc lối ra vào đường hầm dành cho tàu ngầm. Các ống phóng tên lửa dài khoảng 7m, là quá ngắn so với các tên lửa chống hạm C-802/YJ-83 (Ưng Kích 83). Do vậy, các chuyên gia dự đoán các bệ phóng này là để triển khai tên lửa chống hạm C-801/YJ-8 (Ưng Kích 8). Loại tên lửa này có tầm bắn ngắn hơn, nên sẽ phù hợp hơn để triển khai ở vai trò này. Có lẽ, Trung Quốc cũng không quá ưu tiên nâng cấp các bệ phóng này, mà chỉ bổ sung cho chúng bằng các đơn vị tên lửa phòng thủ bờ biển cơ động trên xe vận tải hạng nặng. Phòng thủ các căn cứ và kiểm soát tuyến đường biển xung quanh bằng tên lửa phòng không và tên lửa chống hạm là một chiến lược được Trung Quốc thường xuyên sử dụng, không chỉ với căn cứ Du Lâm, mà còn với các đảo nhân tạo nhỏ hơn trên Biển Đông.

Tài sản có giá trị cao nhất của căn cứ Du Lâm là tàu ngầm (và các hạ tầng liên quan). Căn cứ hải quân này có 4 cầu tàu có khả năng kết nối với bất cứ tàu ngầm nào của Hải quân Trung Quốc – bao gồm tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Thương. Các bức ảnh vệ tinh cho thấy trên các cầu tàu đã xuất hiện hoạt động vận chuyển vũ khí, nhưng vẫn còn nhiều suy đoán rằng liệu việc triển khai vũ khí có diễn ra bên trong các cơ sở ngầm dưới lòng đất hay không. Dĩ nhiên, hầm ngầm không phải là một địa điểm lý tưởng để đưa vũ khí lên tàu ngầm, vì một vụ nổ bất ngờ trong không gian kín như vậy sẽ cực kì nguy hiểm. Tuy nhiên, trong tình huống chiến tranh, hoặc trong nỗ lực bảo vệ bí mật quan trọng, Trung Quốc có thể chấp nhận nguy cơ này và triển khai vũ khí bên trong cơ sở ngầm dưới mặt đất.

Lối vào duy nhất của cảng ngầm trong lòng núi dành cho tàu ngầm là một đường hầm ngập nước rộng 16m, rộng hơn 3m so với đường hầm tại căn cứ hải quân Khương Các Trang (Thanh Đảo), của Hạm đội Biển Bắc Trung Quốc. Cần lưu ý rằng căn cứ Khương Các Trang là nơi đóng quân của các tàu ngầm lớn nhất của hải quân Trung Quốc, bao gồm cả các tàu ngầm hạt nhân lớp Tấn (kiểu 094). Các tàu ngầm lớp Tấn hiện là những tàu ngầm duy nhất của Trung Quốc có thể mang tên lửa đạn đạo liên lục đại (ICBM) – với 12 đạn tên lửa trên mỗi tàu, là sức mạnh răn đe hạt nhân của Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc chỉ có kế hoạch chế tạo sáu tàu ngầm lớp Tấn, nhưng so với mức tối thiểu cần thiết để duy trì khả năng tấn công đáp trả của hải quân, thì Trung Quốc sẽ cần có một lớp tàu ngầm hạt nhân mới trong thập kỉ tới (dự kiến là lớp Đường). Dĩ nhiên, với đường hầm rộng hơn, căn cứ Du Lâm đã được quy hoạch không chỉ để là tổng hành dinh lực lượng tàu ngầm Hạm đổi Nam Hải, mà rộng ra còn là để thay thế căn cứ Khương Các Trang để trở thành căn cứ chính của các tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc.

Mặc dù chức năng chính của căn cứ Đông Du Lâm là dành cho các tàu ngầm hạt nhân, nhưng căn cứ này cũng là một cơ sở cho các hạm tàu mặt nước của Hải quân Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa. Dọc theo phía bắc vịnh Tam Á là hai cầu tàu, cho phép tiếp nhận tất cả các tàu mặt nước của Hải quân Trung Quốc. Với chiều dài ước tính gần 1km, các cầu tàu này có thể tiếp nhận đồng thời 16 tàu khu trục – và một số lớn hơn nhiều các tàu hộ tống, tàu frigate cỡ nhỏ hơn. Cách đó vài km về phía Tây, Trung Quốc cũng đã xây dựng các cầu tàu có thể tiếp nhận hai tàu sân bay. Căn cứ cho tàu ngầm được gọi là Đông Du Lâm, còn cầu cảng cho tàu nổi và sân bay là Tây Du Lâm.

Về phòng thủ diện rộng, có lẽ Trung Quốc sẽ triển khai các tổ hợp tên lửa phòng không S-400 mua từ Liên bang Nga. Với một căn cứ chiến lược cùng nhiều cơ sở có giá trị lớn như Du Lâm, thì việc triển khai tên lửa S-400 ở đây là rất xứng đáng. S-400 có tầm bắn xa hơn nhiều so với tên lửa phòng không HQ-9 (Hồng Kỳ 9), đồng thời có khả năng ngăn chặn các máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm định tấn công vào căn cứ. Tầm bắn của S-400 cũng cho phép Trung Quốc thực hiện chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập (A2/AD) trên biển Đông một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, việc triển khai một tổ hợp tên lửa phòng không với tầm bắn hàng trăm km ở Du Lâm sẽ mang ý nghĩa kiểm soát vùng trời xung quanh căn cứ, nhiều hơn là để bảo vệ căn cứ đó. Như đã lưu ý ở trên, Trung Quốc cũng đã bố trí tên lửa hành trình chống tàu gần lối vào đường hầm tàu ​​ngầm. Đây có thể là các bệ phóng tên lửa tầm ngắn (bởi kích thước của chúng), và như vậy sẽ có phần không hiệu quả trong việc răn đe các hạm tàu mặt nước hiện đại, có thể tấn công Du Lâm từ ngoài tầm bắn.

Mặc dù các vũ khí phòng thủ điểm của căn cứ Du Lâm không gây nhiều bất ngờ cho phía Hoa Kỳ, nhưng bản thân đảo Hải Nam đã được bảo vệ rất tốt. Một căn cứ quân sự liên hợp rộng lớn như Du Lâm có rất nhiều các khí tài tác chiến điện tử. Bản thân căn cứ có các máy bay chiến đấu J-11 (một bản sao chép của máy bay Sukhoi Su-27 Flanker của Nga), cũng như có thể được chi viện từ các sân bay khác của Không quân Trung Quốc.

Tàu ngầm tấn công và các nhóm tàu sân bay tấn công được tập hợp tại Du Lâm sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc thực hiện bành trướng sức mạnh, đặc biệt phù hợp với các đối tượng là các quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc trên Biển Đông. Trung Quốc sử dụng lực lượng tàu ngầm cho nhiệm vụ chống tàu nổi, đây là chiến thuật lý tưởng cho kế hoạch kiểm soát trên biển. (Trên thực tế, gần 2/3 lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc được trang bị đặc biệt để đánh chìm tàu của đối phương thay vì tấn công các mục tiêu trên mặt đất hoặc săn đuổi các tàu ngầm khác).

Trong tương lai, khi triển khai các nhóm tàu sân bay tấn công từ Du Lâm, Trung Quốc muốn nhắc nhở các đối thủ rằng Bắc Kinh có thể tấn công các thành phố và bắn hạ các máy bay của họ. Bắc Kinh sẽ gây áp lực cưỡng chế lên các lực lượng hải quân ở Đông Nam Á trên Biển Đông. Các tàu ngầm tấn công và tàu chiến gây áp lực lên các lực lượng hải quân khu vực, còn tàu ngầm lớp Tấn ở Du Lâm sẽ đảm bảo khả năng tấn công hạt nhân của Trung Quốc. Do đó, căn cứ Du Lâm – khu liên hợp hải quân đang phát triển mạnh mẽ trên Biển Đông, trở thành một trong những căn cứ quân sự quan trọng nhất của Trung Quốc ở châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới. Căn cứ này đặc biệt quan trọng cho nhiệm vụ: bành trướng sức mạnh trong khu vực và chiến lược răn đe hạt nhân toàn cầu. Các tàu trên mặt nước và các tàu ngầm tấn công của Du Lâm sẽ tăng cường vị thế của Trung Quốc trên các tuyến thương mại quan trọng trong khu vực và ép buộc các nước láng giềng phải chấp nhận yêu sách “Đường lưỡi bò” phi pháp của Bắc Kinh.

http://biendong.net/bi-n-nong/34760-chuyen-gia-damen-cook-can-cu-du-lam-trong-chien-luoc-hai-quan-cua-tq.html

 

Lợi dụng đại dịch, Trung Quốc theo đuổi

chính sách liều lĩnh ở Biển Đông

Hương Thảo

Trong khi thế giới chiến đấu với COVID-19 thì Trung Quốc đang tiến gần hơn đến việc thiết lập sự thống trị trong khu vực.

Bắc Kinh đã gia tăng áp lực đối với các nước láng giềng trong nỗ lực thống trị toàn bộ Biển Đông.

Trong khi thế giới bị phân tâm bởi đại dịch viêm phổi Vũ Hán, Trung Quốc đã âm thầm thực hiện các hành động bán quân sự và chính trị – pháp lý ở Biển Đông nhằm thay đổi cuộc chơi trong khu vực. Đặt cược rằng Hoa Kỳ đang tập trung ở đâu đó và kiệt sức sau nhiều năm bị Trung Quốc lấn lướt, những nỗ lực của Bắc Kinh đang tiến đến một điểm bùng phát không thể cứu vãn. Trung Quốc đặt mục tiêu ép các nước láng giềng từ bỏ tuyên bố chủ quyền hợp pháp của họ và khuất phục trước yêu sách đường chín đoạn của Bắc Kinh. Đây là một ranh giới không được quốc tế công nhận, chiếm 85% Biển Đông và gần như toàn bộ vùng biển quốc tế với 3,4 nghìn tỷ USD hàng hóa được tự do vận chuyển qua lại mỗi năm.

Trung Quốc không quan tâm đến các yêu sách của họ về cơ bản có phù hợp với luật pháp quốc tế về biên giới trên biển hay không. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển mà nước này đã phê chuẩn và tuyên bố tuân thủ cũng như các tuyên bố của Trung Quốc đã bị tòa án quốc tế ở Hague bác bỏ. Nó là một phần trong chiến lược rộng lớn hơn để tìm kiếm một phạm vi ảnh hưởng mang tính quyết định với khả năng phòng thủ quân sự để tăng tổn thất cho bất kỳ sự can thiệp tiềm năng nào của Hoa Kỳ.

Những hành động này và phản ứng của Hoa Kỳ cùng các quốc gia trong khu vực sẽ quyết định liệu tương lai của khu vực là hòa bình và thịnh vượng chung giữa các quốc gia hay bị cuốn vào xung đột với Bắc Kinh.

Cố gắng tạo ra một “sự đã rồi” là cách duy nhất để diễn giải hành vi của Bắc Kinh trong những tuần gần đây. Vào ngày 18/4, Trung Quốc tuyên bố thành lập hai khu hành chính mới trên Đá Chữ Thập, là một hòn đảo nhân tạo ở Trường Sa, và một khu khác trên đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa. Họ đã đặt tên cho 80 đảo nhỏ và rạn san hô bao gồm không chỉ các đảo nhân tạo mà còn 55 thực thể đá ngầm tồn tại dưới nước. Những hành động này nhằm tạo cớ bành trướng kiểm soát 1,4 triệu dặm vuông của Biển Đông.

Để thực thi những yêu sách này trong năm qua, Trung Quốc đã tăng áp lực bằng cách sử dụng ba lực lượng trên biển – gồm các đội tàu của Quân đội Trung Quốc PLA, Lực lượng hải cảnh Trung Quốc và dân quân hàng hải – quần thảo ở vùng biển ngoài khơi Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Philippines. Việc đánh bắt cá bất hợp pháp đã khiến Indonesia đẩy mạnh các hoạt động của hải quân bao gồm bắt và đánh chìm hơn mười tàu đánh cá Trung Quốc quanh quần đảo Natuna, được quốc tế công nhận là nằm ở vùng biển Indonesia. Thay vì dừng lại, Trung Quốc đã nối lại hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp quanh quần đảo Natuna vào cuối tháng 3. Trong khi Trung Quốc không tranh chấp chủ quyền với Indonesia ở khu vực này, Bắc Kinh đưa ra tuyên bố vô lý rằng đây là “ngư trường truyền thống của Trung Quốc từ thời cổ đại” như thể ngư dân Indonesia, Malaysia hoặc Việt Nam không tồn tại trong quá khứ.

Đáng ngại hơn, Bắc Kinh đã tăng cường gây hấn trong năm vừa qua bằng cách đe dọa các dự án dầu khí lớn ngoài khơi thuộc lãnh hải của Malaysia và Việt Nam được quốc tế công nhận là vùng đặc quyền kinh tế EEZ (200 hải lý tính từ bờ biển). Vào cuối tháng 4, một tàu khảo sát được hộ tống bởi hải cảnh Trung Quốc đã quấy rối một tàu thăm dò năng lượng của người khổng lồ Petronas vận hành bên trong vùng EEZ của Malaysia. Sự đe dọa này đã diễn ra sau những diễn biến tương tự vào năm ngoái. Trước khi đến Malaysia, tàu khảo sát đã đi qua vùng EEZ của Việt Nam gần địa điểm xảy ra tranh chấp trước đó. Năm 2019, các tàu Trung Quốc đã cố gắng ngăn chặn Việt Nam thăm dò 5 khối dầu khí ngoài khơi bên trong vùng EEZ của Việt Nam. Điều này đã làm dấy lên lo ngại rằng Trung Quốc đang cố gắng phá vỡ và dần dần bóp nghẹt các hoạt động dầu khí của Malaysia và Việt Nam trong khu vực và xóa bỏ các tuyên bố chủ quyền của họ. Tổn thất cho Malaysia sẽ rất lớn nếu Petronas phải dừng các dự án quan trọng.

Sự gây hấn của Trung Quốc là một thử thách về vai trò và uy tín của Hoa Kỳ tại Châu Á. Hoa Kỳ không có yêu sách lãnh thổ nhưng có lợi ích lâu dài đối với tự do hàng hải. Đến nay, phản ứng của Hoa Kỳ đối với sự hiếu chiến của Trung Quốc chủ yếu là lên án ngoại giao và tăng cường hoạt động tự do hàng hải của Hải quân Hoa Kỳ trong vùng biển quốc tế mà Trung Quốc đòi chủ quyền. Các hoạt động này là cần thiết nhưng không đủ vì chúng không có tác động rõ ràng đến cách hành xử của Trung Quốc. Tương tự, trong khi ASEAN vẫy tay với Bắc Kinh, tổ chức này đã mất gần 20 năm để cố gắng đàm phán một bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông với Bắc Kinh mà không có kết quả.

Vai trò trung tâm trong việc chống lại Trung Quốc thuộc về ASEAN, một liên minh có tiềm năng rất lớn của 10 quốc gia với 625 triệu dân và gần 3 nghìn tỷ đô la GDP. Nhưng bởi vì các quyết định của ASEAN đòi hỏi phải có sự nhất trí hành động mạnh mẽ, đã bị chặn bởi hai thành viên là Campuchia và Lào, được coi là hậu thuẫn cho Bắc Kinh, đã cho phép Trung Quốc phủ quyết tiếng nói của  khối.

Do vậy ASEAN cần xem xét lại quá trình ra quyết định của mình. Nếu ASEAN không thể tìm thấy sự đồng thuận như một khối thống nhất thì những thành viên ASEAN muốn hành động nên lập một liên minh hàng hải riêng để thể hiện ý chí của mình.

Các quốc gia Đông Nam Á giáp biển nhận thức sâu sắc rằng các rủi ro vì không hành động sẽ mang lại cho Bắc Kinh quyền kiểm soát vĩnh viễn các hoạt động kinh tế và quân sự ở Biển Đông, đó sẽ là một đòn chí mạng đối với quyền tự chủ chiến lược của họ. Do đó, thời gian đã chín muồi cho một liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc sẽ là lựa chọn khôn ngoan để đi đầu trong việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử cho Tây Thái Bình Dương dựa trên luật pháp quốc tế được công nhận và thành lập các tổ chức pháp lý hàng hải.

Nếu ASEAN có thể có hành động tập thể, sức mạnh của Trung Quốc đối với từng nước thành viên sẽ tiêu tan. Ngược lại, chiến thuật bắt nạt của Bắc Kinh có hiệu quả nhất khi nó chia rẽ và cô lập thành công các nước láng giềng. Sau khi tàu hải cảnh Trung Quốc đánh chìm một tàu Việt Nam và làm tám ngư dân bị thương vào ngày 3/4, Bộ Ngoại giao Philippines đã thực hiện động thái hiếm hoi bày tỏ sự ủng hộ đối với Việt Nam. Bắc Kinh đã chú ý. Tương tự, nó đã tạo ra sự khác biệt khi Việt Nam giải cứu ngư dân Philippines bị mắc kẹt vào năm ngoái sau khi bị một tàu nghi là của Trung Quốc đâm chìm thuyền của họ.

Để ngăn chặn việc Tây Thái Bình Dương biến thành một hồ nước thuộc sở hữu của Trung Quốc đòi hỏi phải có sự hợp tác của các bên và luật pháp quốc tế. Các quốc gia hàng hải như Philippines, Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Brunei nên tăng cường hợp tác bằng cách phối hợp các hoạt động của lực lượng bảo vệ bờ biển, tăng cường chia sẻ thông tin tình báo và đạt được thỏa thuận về cách phân định ranh giới trên biển ở Biển Đông.

Trong khi đó, Hoa Kỳ nên đóng vai trò là chất xúc tác cho hệ thống phòng thủ khu vực bằng cách tài trợ cho Sáng kiến ​​Răn đe Ấn Độ-Thái Bình Dương, nơi sẽ cung cấp tài chính cho hoạt động quân sự và xây dựng dựa trên những nỗ lực trước đó. Nếu Bắc Kinh thành công, đó sẽ là một đòn giáng mạnh vào uy tín của Hoa Kỳ, uy hiếp các liên minh và quan hệ đối tác của Hoa Kỳ trong khu vực. Trung Quốc hiểu rõ điều này, và ASEAN, Hoa Kỳ cũng vậy.

Theo Foreign Policy

Hương Thảo dịch và biên tập

https://www.dkn.tv/the-gioi/loi-dung-dai-dich-trung-quoc-theo-duoi-chinh-sach-lieu-linh-o-bien-dong.html