Tin Biển Đông – 12/05/2020
Các hoạt động quân sự gia tăng đẩy mạnh căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng tại biển Đông
Năm 2020, Hoa Kỳ đẩy mạnh các hoạt động quân sự tại vùng biển gần Trung Cộng, trong bối cảnh căng thẳng giữa hai quốc gia tiếp tục gia tăng. Tính đến nay, phi cơ của các lực lượng quân sự Hoa Kỳ đã thực hiện 39 chuyến bay qua khu vực Biển Đông, Biển Hoa Đông, Hoàng Hải và Eo biển Đài Loan. Bên cạnh đó, Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành 4 hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông trong 4 tháng đầu năm 2020.
Hôm thứ sáu (8/5), tàu chiến USS Montgomery và tàu chở hàng USNS Cesar Chavez cũng được cho là đã hoạt động tại khu vực Biển Đông. Mặc dù không có yêu sách hàng hải ở Biển Đông, Hoa Kỳ vẫn duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ trong khu vực để thể hiện sự ủng hộ đối với các nước đồng minh, và chống lại việc Trung Cộng xây dựng các cơ sở quân sự và thái độ ngày càng hung hăng của quốc gia này.
Theo tờ South Morning China Post đưa tin, bất chấp công cuộc đẩy lùi COVID-19, cả Trung Cộng và Hoa Kỳ đều không làm chậm lại các hoạt động quân sự. Phi cơ của Trung Cộng đã được phát hiện bay gần không phận Đài Loan ít nhất 6 lần trong năm 2020. Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh được nhìn thấy 2 lần vào tháng 4/2020 ở vùng lân cận Đài Loan.
Ông Timothy Heath, một chuyên gia an ninh Hoa Kỳ cho biết, sự gia tăng các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ một phần là do sự thất bại trong nỗ lực ngoại giao để giải quyết xung đột giữa 2 quốc gia. Ông Song Zhongping, một nhà bình luận quân sự Trung Cộng cho rằng, cuộc xung đột giữa 2 nước hiện đã vượt ra ngoài phạm vi quân sự, mà còn liên quan đến thương mại, văn hóa và hệ tư tưởng. (BBT)
Tiến sỹ C.J.Jenner: Biển Đông trở thành
điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ xung đột trực tiếp
hoặc chiến tranh ủy nhiệm.
Thời gian gần đây, Quốc liên tục gia tăng các hoạt động phi pháp trên thực địa, đã đe dọa trực tiếp hòa bình, ổn định trong khu vực. Trong khi đó, sức mạnh hàng hải của Mỹ có phần suy yếu trong tương quan với Trung Quốc, và cuộc chạy đua mới trong việc lập lại trật tự địa chính trị toàn cầu. Trong sự thay đổi này, Biển Đông trở thành điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ xung đột trực tiếp hoặc chiến tranh ủy nhiệm.
Theo Tiến sĩ C.J.Jenner, chuyên gia nghiên cứu về địa chính trị – đặc biệt về quan hệ quyền lực biển Mỹ – Trung tại Đại học Oxford (Anh), sau Chiến tranh Lạnh, sức mạnh hàng hải của Mỹ có phần suy yếu trong tương quan với Trung Quốc, và cuộc chạy đua mới trong việc lập lại trật tự địa chính trị toàn cầu. Trong sự thay đổi này, Biển Đông trở thành điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ xung đột trực tiếp hoặc chiến tranh ủy nhiệm. Theo đó, năm 1975, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia khi đó là ông Adam Malik đã dự báo về tình hình địa chính trị ở Biển Đông thông qua tình hình chung cho khu vực Đông Nam Á. Đó là Đông Nam Á trở thành khu vực mà trong đó hội tụ sự hiện diện và lợi ích của hầu hết các cường quốc cả về chính trị lẫn vật chất. Tần suất, cường độ tương tác chính sách giữa các cường quốc cũng như ảnh hưởng chi phối đối với các quốc gia trong khu vực đều tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Đối mặt với thực tế trên, các nước nhỏ hơn khó có thể tự tạo ra bất kỳ tác động nào đến chính sách, chiến lược thống trị của các cường quốc. Ảnh hưởng chỉ có thể tạo ra khi các quốc gia trong khu vực ASEAN cùng hành động tập thể, các thành viên cùng nhau tạo nên sự gắn kết nội bộ, ổn định vì mục đích chung.
Bên cạnh đó, các nước gần Trung Quốc trong khu vực Biển Đông đang phải báo động mạnh mẽ vì những hành động thúc ép hàng hải được đẩy mạnh. Một khảo sát vào năm 2019 của Trung tâm nghiên cứu Pew (Mỹ) chỉ ra rằng 79% người được hỏi đều trả lời rằng sự trỗi dậy của sức mạnh hải quân Trung Quốc gây ảnh hưởng không tốt cho các quốc gia khác. Tiến sĩ C.J.Jenner cho rằng, dù bỏ ra 1.300 tỉ USD cho các nước để thực hiện Sáng kiến Vành đai – Con đường, nhưng khảo sát ở chính các quốc gia tham gia sáng kiến này của Bắc Kinh cũng cho kết quả trung bình về sự tín nhiệm quan hệ kinh tế với Mỹ vẫn cao hơn khi đạt 64%, còn Trung Quốc chỉ 24%. Bắc Kinh đang tạo ra cơ hội chín muồi để ASEAN củng cố sự gắn kết trong khu vực, phối hợp an ninh vì mục đích chiến lược chung
Về giải pháp ứng phó, đến giờ có một quá trình được nhận thấy rõ trên Biển Đông cũng như nhiều khu vực tranh chấp trên toàn cầu. Chính trị không ảnh hưởng lớn đến chiến thuật xung đột, nhưng là yếu tố chi phối ảnh hưởng ở cấp chiến lược cho việc hoạch định và định vị chiến tranh. Cụ thể, trong thời bình thì các quốc gia có xu hướng cho rằng thực hiện răn đe hiệu quả là bằng cách lập kế hoạch cho những hoạt động quân sự và định vị trước địa chiến lược nhằm đảm bảo tối đa hóa cơ hội chiến thắng nếu xảy ra xung đột. Từ thực tế trên, răn đe hiệu quả sẽ khiến một quốc gia có ý định xâm lược phải đánh giá lại liệu rằng cái giá phải trả lớn hơn rất nhiều so với lợi ích đạt được nếu dùng quân sự để xâm lược. Hiệu quả răn đe như thế đòi hỏi phải duy trì khả năng và chiến lược quân sự phù hợp, kết hợp cùng ý chí chính trị rõ ràng để hành động. Cho dù kẻ thù là đại dịch COVID-19 hay một lực lượng hải quân hiếu chiến thì để giữ gìn hòa bình và đảm bảo an ninh đều đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thích hợp cho chiến tranh.
Được biết, Trung Quốc lập luận rằng yêu sách của nước này ở Biển Đông là hợp pháp dựa trên việc thực thi chủ quyền đầy đủ và liên tục đối với các quần đảo sau khi phát hiện từ thời nhà Hán. Việc Trung Quốc khám phá ra các quần đảo đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa “chủ quyền ban đầu”. Danh nghĩa “chủ quyền” này về sau được Trung Quốc hoàn thiện thông qua việc thể hiện chủ quyền liên tục trên các quần đảo trong suốt tiến trình lịch sử. Những hành động củng cố “chủ quyền” của Trung Quốc, bao gồm việc khai thác các đảo với sự tài trợ từ phía chính phủ, tuần tra liên tục trên biển cũng như hàng loạt khảo sát khoa học, đã chứng tỏ “chủ quyền và sự quản lý hữu hiệu” của Trung Quốc trên các quần đảo này. Tuy nhiên, nhìn từ khía cạnh luật quốc tế và dẫn chứng lịch sử cho thấy những gì Trung Quốc công bố và quảng bá chỉ là hình thức ngụy tạo và viện dẫn sai các quy định luật quốc tế.
Nếu quy chiếu theo luật quốc tế, các bằng chứng lịch sử cũng như các tiếp xúc (với đảo) mang tính rời rạc và nhỏ lẻ của ngư dân Trung Quốc là không đủ để thiết lập chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo tại Biển Đông. Vì vậy, tính hợp lý của yêu sách từ phía Trung Quốc vẫn “nằm trong diện nghi vấn”. Liệu các nhà hàng hải Trung Quốc có thực sự xây dựng hải đồ Biển Đông như mình khẳng định hay không vẫn chưa được xác định bởi các thủy thủ Trung Quốc thời xưa thường đi lại trong các tuyến đường biển phía trong, dọc theo bờ biển của đảo Hải Nam và vùng đất liền Việt Nam. Mặc dù vậy, kể cả khi Trung Quốc có thực sự vẽ hải đồ Biển Đông, điều này cũng không chứng tỏ được quyền quản lý hữu hiệu các quần đảo của Bắc Kinh. Về mặt pháp lý, nếu chỉ dựa vào việc các thủy thủ Trung Quốc nhận thức được sự tồn tại và vị trí của Hoàng Sa và Trường Sa thì không đủ để minh chứng rằng Trung Quốc thực sự đã “khám phá” ra các quần đảo. Luật quốc tế đã chỉ ra rõ điểm khác nhau giữa “ý niệm nhận thức và phát hiện về địa lý” khi phân định chủ quyền đối với lãnh thổ bởi hiệu lực pháp lý của hai hành động này về bản chất là khác nhau. Theo đó, phần lớn các bằng chứng Trung Quốc đưa ra để giải thích cho lập luận của mình đều nằm trong nhóm tài liệu “chỉ đơn thuần cung cấp thông tin cơ bản về khu vực này chứ không có hữu hiệu để lập luận pháp lý”
Hơn nữa, bằng chứng lịch sử do Trung Quốc đưa ra để lý giải yêu sách của mình không chỉ không có sức thuyết phục mà còn hàm chứa nhiều mâu thuẫn và sơ hở. Các triều đại phong kiến châu Á cổ không thực hiện chủ quyền trên lãnh thổ mà chỉ đơn thuần được mô tả bởi các đường lãnh thổ không xác định và không cố định. Do vậy, ý niệm về “chiếm hữu hữu hiệu” không tồn tại trong hệ thống pháp lý của Nho giáo được Trung Quốc áp dụng cho tới tận những năm 1990. Giáo sư Mohan Malik, Trung tập Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương nhận xưa đã nhận định: “Yêu sách của Trung Quốc tại Trường Sa dựa trên lịch sử đã bị thiếu cơ sở bởi thực tế là các vị hoàng đế trong quá khứ không tiến hành thực thi chủ quyền tại quần đảo này. Trong thời kì châu Á tiền hiện đại, các vương quốc được xác định bằng các đường biên vô định, không được bảo vệ và thường xuyên thay đổi. Ý niệm về quyền bá chủ mới là ý niệm nổi trội”. Theo giáo sư Malik, không như các quốc gia nhà nước, “biên giới của các triều đại Trung Quốc không được vạch ra cũng như kiểm soát cẩn thận mà giống như vòng tròn các khu vực, đi từ vùng trung tâm văn minh đến các vùng ngoại biên không xác định”. Hơn nữa, trong tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng như Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam, Bắc Kinh luôn luôn giữ quan điểm rằng biên giới đất liền của mình chưa bao giờ được xác định hay phân định, phân chia rõ ràng.
Ngoài ra, hầu hết các học giả châu Á đều đồng ý rằng các thủy thủ Trung Quốc “đều là những người đến sau tại Biển Đông”. Tổ tiên của người Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam ngày nay ít nhất đã thống trị “việc đi biển” (seafaring) của khu vực này trong vòng thiên niên kỉ đầu tiên sau Công Nguyên”. Các thủy thủ Malaysia đã vượt Ấn Độ Dương 1.000 năm trước khi Tướng quân Trịnh Hòa thực hiện 7 chuyến hải trình vào thế kỷ 15. Vương quốc Chăm (mà ngày nay là vùng miền Trung Việt Nam) mới là vương uốc thống trị buôn bán qua Biển Đông cho tới khi bị Việt Nam sáp nhập vào thế kỷ 15. Nếu so sánh, ta có thể thấy tuyến đường truyền thống mà các nhà hàng hải Trung Quốc ban đầu sử dụng chính là tuyến đường phía trong, dọc theo bờ biển của đảo Hải Nam và An Nam (Việt Nam lục địa), chứ không phải các tuyến đường thông qua Bãi Macclesfield và Hoàng Sa. Vì vậy, lập luận Trung Quốc khám phá ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, xét về mặt pháp lý, là không hề chắc chắn.
Thời gian gần đây, để củng cố yêu sách “chủ quyền” trên Biển Đông và định hướng dư luận trong nước, Trung Quốc đã gia tăng một loạt các hoạt động phi pháp trên thực địa. Theo đó, Hải quân Trung Quốc đã điều đội tàu gồm tàu khu trục Taiyuan và Jingzhou thực hiện bài tập cứu tàu bị hải tặc tấn công và phối hợp hoạt động chống hải tặc ở khu vực quần đảo Trường Sa, đi qua eo biển Miyako và kênh Bashi. Không chỉ diễn tập chống cướp biển, các máy bay chống ngầm thuộc Chiến khu miền Nam của quân đội Trung Quốc cũng đã tiến hành sứ mệnh tuần tra và chống ngầm trên khu vực Biển Đông.
Trước đó, Trung Quốc cũng đã có nhiều hoạt động phi pháp, đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực. Ngày 2/4, Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Việt Nam hoạt động ở Hoàng Sa. Trong khi vấp phải sự chỉ trích của Việt Nam và thế giới, Trung Quốc đưa ra một lời giải thích vô lý rằng chính tàu cá của Việt Nam đã húc vào tàu hải cảnh của Trung Quốc rồi chìm. Ngày 14/4, Trung Quốc xua tàu Hải Dương Địa Chất 8 ra biển Đông, con tàu “tai tiếng” đã cắm cọc ở vùng biển Việt Nam suốt nhiều tháng với mục tiêu được cho là quấy rối hoạt động dầu khí của Việt Nam. Ngày 18/4, Trung Quốc tuyên bố thành lập cái gọi là “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” thuộc “thành phố Tam Sa”, hai quận hành chính để quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Không những thế, Trung Quốc còn gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc vu cáo “Việt Nam chiếm đóng trái phép các đảo thuộc Trung Quốc, yêu cầu Việt Nam rút toàn bộ nhân lực khỏi các đảo này”. Ngày 19/4, Bộ Dân chính Trung Quốc ngang nhiên công bố “danh xưng tiêu chuẩn” cho 25 đảo, bãi đá ngầm cùng 55 thực thể địa lý dưới đáy biển ở Biển Đông, phần lớn số này nằm trong quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Việt Nam nói trong những thực thể này có những bãi cạn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, có điểm chỉ cách bờ biển Việt Nam chưa đầy 60 hải lý hoặc đường cơ sở Việt Nam khoảng 50 hải lý.
Trước những hành động này của Trung Quốc, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng (5/2019) khẳng định: “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như các quyền hợp pháp đối với các vùng biển của Việt Nam được xác định phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Việt Nam cho rằng các biện pháp bảo tồn nguồn tài nguyên sinh vật cần được tiến hành phù hợp với các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và không làm phương hại đến quyền chủ quyền và các quyền tài phán trên biển của các nước có liên quan. Việt Nam phản đối và kiên quyết bác bỏ quyết định đơn phương này của phía Trung Quốc. Quy chế này xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), trái với Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”.
Báo Nhật: Trung Quốc sẽ tập trận lớn ở Biển Đông
vào tháng 8
Minh Hòa
Hãng Kyodo News của Nhật Bản hôm nay (12/5) đưa tin quân đội Trung Quốc đang lên kế hoạch tổ chức một cuộc tập trận quy mô lớn ở Biển Đông vào tháng 8.
Taiwan News trích dẫn báo cáo của Kyodo News, cho biết Chiến khu Nam bộ (trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc) sẽ triển khai cuộc tập trận, với sự tham gia của nhiều thủy quân lục chiến, các tàu đổ bộ, tàu lượn và máy bay trực thăng. Kyodo cho biết đây sẽ là một cuộc diễn tập với quy mô lớn chưa từng có.
Báo cáo cho biết mục tiêu của cuộc tập trận là hy vọng một ngày nào đó Trung Quốc sẽ chiếm được quần đảo Đông Sa, hiện do Đài Loan kiểm soát ở Biển Đông.
Kyodo News còn cho biết, Trung Quốc cũng đang mở rộng các căn cứ quân sự tại quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Taiwan News nhận định Bắc Kinh ngày càng muốn kiểm soát quần đảo Đông Sa, trong bối cảnh Hoa Kỳ liên tiếp thực hiện các cuộc diễn tập trong khu vực và tăng cường mối quan hệ với Đài Loan hay còn gọi là Trung Hoa Dân Quốc.
Đáp lại kế hoạch tập trận của Trung Quốc, Thiếu tướng Lâm Văn Hoàng (Lin Wen-huang), Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng Đài Loan (MND), tuyên bố Đài Bắc đã chuẩn bị và lên kế hoạch cho trường hợp bị Trung Quốc tấn công.
Quần đảo Đông Sa nằm ở đông bắc Biển Đông, thuộc quản lý của thành phố Cao Hùng, Đài Loan. Bắc Kinh coi Đài Loan là một tỉnh ly khai, vì vậy cũng coi quần đảo Đông Sa là thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Giới quan sát nhận định chính quyền Trung Quốc đang lợi dụng thời gian các nước bận ứng phó với dịch viêm phổi Vũ Hán để gia tăng kiểm soát ở Biển Đông, một vùng biển có vị trí chiến lược và các tuyến đường thủy quan trọng của thế giới.
https://www.dkn.tv/the-gioi/bao-nhat-trung-quoc-se-tap-tran-lon-o-bien-dong-vao-thang-8.html
Giới chuyên gia bàn về khả năng
Mỹ tăng cường hiện diện ở Vịnh Cam Ranh
để răn đe TQ trên Biển Đông
Trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng các hoạt động phi pháp trên thực địa, khiến xuất hiện ngày càng nhiều những đồn đoán về khả năng Mỹ sẽ thuê cảng Cam Ranh của Việt Nam. Tuy nhiên, theo giới phân tích, khả năng này sẽ ít khi xảy ra.
Giáo sư Carl Thayer, Đại học New South Wales của Australia nhận định Cam Ranh là một trong các cảng nước sâu tốt nhất trong vùng, có tầm quan trọng chiến lược đối với Đông Nam Á, và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương-Ấn Độ Dương. Trong khi đó, Hiệp ước phòng thủ chung giữa Hoa Kỳ và Philippines đã có từ năm 1951, cho phép quân đội Mỹ hiện diện tại các căn cứ chiến lược của Philippines. Tình hình Biển Đông có lẽ đã khác đi nếu người Mỹ không rút ra khỏi lãnh thổ Philippines vào đầu thập niên 1990, vì những mâu thuẫn dẫn tới việc đàm phán lại Hiệp ước phòng thủ chung (MDT), khiến Mỹ rút ra khỏi Philippines. Sự vắng mặt của Mỹ trong khu vực từ đó, đã tạo chỗ trống cho phép Trung Quốc bành trướng và mở rộng phạm vi ảnh hưởng, để cuối cùng trở thành một mối đe dọa đối với các nước nhỏ hơn trong khu vực. Vì mối đe dọa này, Manila đề xuất một thỏa thuận cho phép quân đội Mỹ “tạm thời” có mặt tại Philippines, dẫn tới Hiệp Ước Thăm Viếng Quân Sự với Mỹ (VFA) năm 1998, và sau đó Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng Tăng cường (EDCA) giữa Manila và Washington năm 2014. Tuy nhiên, loan báo của Tổng thống Philippines Duterte sẽ chấm dứt Hiệp Ước Thăm Viếng Quân Sự với Mỹ sẽ tác động tới EDCA bởi vì khó có chuyện người Mỹ sẽ tiếp tục hoạt động và hỗ trợ Philippines nếu nhân sự của họ không được bảo vệ theo các điều khoản ghi trong thỏa thuận VFA. Những khúc mắc trong quan hệ hai nước và chính sách bất nhất của Tổng thống Duterte đã buộc người Mỹ xoay sang các nước láng giềng, và trong bối cảnh đó, các cơ sở tại Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với Hoa Kỳ, dẫn tới nhiều đồn đoán cho rằng Hà Nội đang cân nhắc việc cho Hoa Kỳ thuê dài hạn Vịnh Cam Ranh hoặc một vài đảo ở Biển Đông.
Tuy nhiên, Giáo sư Carlyle Thayer cho rằng khả năng này bị hạn chế bởi chính sách “Ba Không” của Việt Nam, ngăn cấm việc cho thuê cảng Cam Ranh hay các đảo đá ở Biển Đông. Theo đó, chính sách đối ngoại và quốc phòng của Việt Nam dựa trên nguyên tắc Ba Không đã được ghi trong Sách trắng Quốc phòng đầu tiên của Việt Nam vào năm 1998. Nguyên tắc Ba Không gồm: “Không liên minh quân sự với nước nào, Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và Không về phe nước nào chống lại một nước khác.”
Chính sách này được Hà Nội tái khẳng định nhiều lần. Sách trắng Quốc phòng mới nhất, công bố vào cuối năm 2019, đổi chính sách Ba không thành Bốn Không: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.
Giáo sư Thayer nhận định, nếu chỉ dựa trên nguyên tắc Ba Không, thì chính sách quốc phòng của Việt Nam ngăn cấm việc cho Hoa Kỳ hoặc bất kỳ nước nào khác, thuê Vịnh Cam Ranh hay các đảo trên Biển Đông. Nhưng GS Thayer lưu ý rằng Sách Trắng Quốc phòng năm 2019 gợi lên triển vọng Việt Nam có thể cứu xét sửa đổi chính sách Ba Không. Các đoạn sau đây đã thu hút nhiều chú ý: “Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung”; “Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.”
Được biết, quân cảng Cam Ranh có vị trí địa chiến lược quan trọng ở bờ biển Đông Nam của Việt Nam, đây được coi là một trong những quân bài chiến lược để Việt Nam đối phó với thách thức an ninh từ Biển Đông. Quân cảng Cam Ranh là một trong những cảng nước sâu tự nhiên tốt nhất thế giới, có tọa độ là 12 độ vĩ Bắc, xung quanh đều có dãy núi bao quanh cao khoảng 400m. Cảng Cam Ranh bên trong có diện tích 60km2, cửa cảng chỉ rộng 1.300m, nước sâu 16 – 25m, chỗ sâu nhất 32m; cảng ngoài Bình Ba có nước sâu 10 – 22m, cửa vịnh rộng khoảng 4.000m, ngoài cửa nước sâu 30m trở lên. Do nước sâu, vịnh rộng, trong cảng có thể đậu hơn 100 tàu chiến cỡ lớn lớp 10.000 tấn, trong đó có tàu sân bay. Cảng chính và căn cứ nằm ở bờ Tây cảng phía trong. Căn cứ không quân nằm trên bán đảo Cam Ranh. Góc Cam Ranh cực Nam bán đảo có trung tâm thông tin.
Quân cảng vịnh Cam Ranh đã triển khai các tàu chiến chủ lực tiên tiến nhất của Hải quân Việt Nam, trong đó có 2 tàu hộ vệ hạng nhẹ lớp Gepard 3.9, tàu tuần tra cỡ lớn sản xuất bằng chuyển nhượng công nghệ, tàu tên lửa lớp Molniya, tàu ngầm thông thường lớp Kilo. Tại Cam Ranh có sân bay lớn, hiện đại. Trước năm 1975 máy bay B.52 của Mỹ đã hạ cánh xuống đây. Sau khi Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp định hợp tác hữu nghị Việt – Xô, Liên Xô đã sử dụng quân cảng Cam Ranh một thời gian. Máy bay TU- 95 của Liên Xô thường xuyên vận chuyển hàng từ Vladivostock xuống sân bay Cam Ranh tiếp tế cho binh đoàn 17 thuộc hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô đóng tại đây.
Giới chuyên gia nhận định, nhờ lợi thế về vị trí, nếu bố trí tên lửa phòng không ở vịnh Cam Ranh và những cao điểm xung quanh thì toàn bộ eo biển Malacca và eo biển Singapore đều nằm trong tầm khống chế của hỏa lực những tên lửa đó. Ngoài ra, vịnh Cam Ranh còn có thể cho phép triển khai hệ thống giám sát điện tử để kiểm soát toàn bộ khu vực Bắc Ấn Độ Dương, vịnh Persia, biển Hoa Đông và Biển Đông. Ngoài ra, vừa có lợi thế tự nhiên rất có lợi cho quân sự, quốc phòng lại cận kề tuyến đường vận tải biển quốc tế trọng yếu nên từ hàng trăm năm nay vịnh Cam Ranh luôn được hải quân các cường quốc coi là “trung tâm dịch vụ hậu cần” quan trọng.
Trong khi đó, giới chuyên gia quốc tế cho rằng khi Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc đang đóng ở đảo Hải Nam, tàu ngầm hạt nhân duy nhất của nước này cũng được đưa đến đây, thì Mỹ và Nhật Bản rất quan tâm đến việc theo dõi các động thái của Trung Quốc ở Biển Đông. Các nước này đều quan tâm đến việc được tiếp cận cảng Cam Ranh, căn cứ ở Singapore, các cảng ở Sabah và Sarawak của Malaysia, Luzon và Palawan ở Philippines. Cảng Cam Ranh đã trở nên quan trọng trở lại trong bối cảnh hiện nay. Nếu liên minh Mỹ – Thái tiếp tục suy yếu, Cam Ranh sẽ càng có ý nghĩa to lớn hơn hơn đối với Mỹ và Nhật Bản.
Giáo sư James Holmes, Đại học Chiến tranh Hải quân Mỹ nhận định, theo thời gian, Cam Ranh không đánh mất những giá trị về sức mạnh và nguồn lực, trong khi giá trị về địa lý trên bản đồ ngày càng gia tăng do những hành vi sai trái của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo đó, tự bản thân Cam Ranh đã có vị trí và điều kiện thiên nhiên thuận tiện cho sự ra vào của các tàu lớn, một quân cảng tốt cho cả phòng thủ lẫn tấn công. Tầm quan trọng của Cam Ranh thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Vì căng thẳng ở Biển Đông, và vì sự lo ngại của các cường quốc với Trung Quốc, Cam Ranh trở nên quan trọng hơn nhiều so với thời kỳ Trung Quốc còn yếu, cũng như so với giai đoạn Mỹ rút đi và không quan tâm đến khu vực Đông Nam Á trước đây.
Trong khi đó, Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm và Thiếu tướng Lê Mã Lương đánh giá cao vai trò phòng thủ của cảng Cam Ranh trong việc ngăn Trung Quốc lộng hành ở Biển Đông. Ông Lê Kế Lâm nhận định, Cam Ranh có vị trí chiến lược không chỉ với Việt Nam mà còn nhiều nước khác ở trong và ngoài khu vực. Xét về mặt địa lý, Cam Ranh là một vịnh rộng, nước sâu, kín gió, có khả năng chống được bão to. Trong khi đó, khu vực Cam Ranh hiếm khi có bão lớn trên cấp 9. Vì thế, tàu thuyền neo đậu ở đây rất an toàn. Xét về mặt quân sự, Cam Ranh có địa thế vô cùng đặc biệt. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng thủ nhưng lại vô cùng dễ dàng cho các nhiệm vụ tấn công trên biển. Ngoài ra, tàu chiến từ Cam Ranh có thể di chuyển ra Biển Đông một cách nhanh chóng, giúp tăng cường khả năng kiểm soát tuyến hàng hải huyết mạch này và bảo vệ chủ quyền. Cùng quan điểm trên, ông Lê Mã Lương cho biết, Cam Ranh là một vịnh thiên nhiên có diện tích hơn 13.800 ha, nước sâu 16-25 m, có nơi sâu hơn 30 m. Vùng nước sâu nhất là 31 m. Hàng không mẫu hạm và hàng trăm tàu có thể neo đậu và ra vào trong cảng Cam Ranh. Cam Ranh không có đá ngầm, núi cao trên 1.000 m bao phủ, che chắn bên ngoài, sâu bên trong là đất liền. Bên trong Cam Ranh là dải đất nối liền từ thành phố Nha Trang tới cụm cảng Cam Ranh hàng trăm km. Đây là khu vực vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu và tạo ra thế trận phòng thủ vững chắc. Với địa thế như vậy, Cam Ranh là căn cứ cho các tàu hải quân xuất phát làm nhiệm vụ ở Trường Sa, bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông, đồng thời bảo vệ ngư dân đánh cá, tài nguyên biển. Ngoài thế mạnh là phòng thủ tại chỗ, Cam Ranh giống như điểm phòng thủ cho khu vực Tây Nguyên và toàn bộ Nam Trung Bộ và khu vực miền Nam. Có thể ví cảng Cam Ranh là “bảo bối” để đảm bảo phòng thủ đất nước và Biển Đông. Đây cũng chính là những lý do khiến các nhà quân sự nước ngoài, đặc biệt là các cường quốc hải quân, đánh giá rất cao cảng Cam Ranh.
Ngoài ra, ông Lê Mã Lương nhận định, tranh chấp Biển Đông ngày càng ẩn chứa những dấu hiệu nguy hiểm khiến Nga, Mỹ, Nhật Bản ngày càng chú ý tới vai trò của quân cảng Cam Ranh. Từ việc khánh thành cảng quốc tế, chúng ta thấy được những lợi thế sau: Thứ nhất, cảng sẽ đóng vai trò lớn trong quá trình triển khai lực lượng ra khu vực trên Biển Đông. Thứ hai, khi chúng ta biết thu hút đầu tư, nâng cấp dịch vụ đạt tầm quốc tế, nó sẽ giúp Việt Nam tăng cường mối quan hệ dân sự và quân sự, củng cố vị thế đối tác chiến lược và nâng cao vai trò của Việt Nam trong khu vực. Thứ ba, cảng quốc tế Cam Ranh còn giúp quốc tế hóa giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông. Và cuối cùng, nó góp phần phòng thủ biển đảo, phát triển kinh tế biển, hợp tác hội nhập quốc tế – những vấn đề sống còn của quốc gia.
Những năm trước đây, Trung Quốc từng vu khống rằng Việt Nam sử dụng Cam Ranh để lôi kéo các nước lớn khác trong khu vực. Đây là những lời lẽ kích động, cho thấy thái độ hậm hực, trịnh thượng của Bắc Kinh.Sự hiện diện của cảng quốc tế Cam Ranh có vai trò quan trọng trong tình hình hiện nay, đặc biệt là trước sự náo động của Trung Quốc trên Biển Đông. Theo đó, cảng dịch vụ Cam Ranh có thể ngăn Bắc Kinh lộng hành trên biển.