Tin Biển Đông – 22/01/2020
Cảnh giác ý đồ của Trung Quốc trên Biển Đông
Phạm Ngọc Thảo
Ngày 20/1/1974 là một sự kiện lịch sử bi tráng đối với dân tộc Việt Nam. Đó là ngày Hải quân Trung Quốc đã bất ngờ tấn công, chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa từ tay của Hải quân Việt Nam Cộng hoà. Trong trận chiến thư hùng đó, 74 chiến sĩ của Hải quân Việt Nam Cộng hoà đã tử vong.
Tình cảnh của Việt Nam Cộng hoà lúc đó khá bi đát khi đang đứng trước nguy cơ thất trận trước người anh em cùng một mẹ – Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chưa kể sự rút lui của Hoa Kỳ sau Hiệp định Paris 1973 đã khiến phía Việt Nam Cộng hoà bị mất tinh thần. Nhân cơ hội đó, “thế” và “thời” đều thuận lợi, nên Trung Quốc đã chọn lựa thời điểm tốt nhất để tấn công, sau khi đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước đó rất lâu.
Hoàng Sa là bước đầu tiên để Trung Quốc thể hiện sức mạnh của mình trên biển trước Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Và cũng là bước thể hiện đầu tiên trong ý đồ “vươn ra biển khơi” mà Trung Quốc đã “nung nấu” trước đó.
Hoàng Sa cũng chưa phải là sự kiện duy nhất Trung Quốc gây hấn trên biển Đông. Năm 1988, Trung Quốc tiếp tục tấn công người anh em sinh đôi của Việt Nam Cộng hoà (lúc đó đã đổi tên là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) tại khu vực Trường Sa. Phía Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với tiềm lực vô cùng hạn chế, cộng với ý đồ quân sự bị lộ, khi tính đưa công binh ra nhằm khẳng định chủ quyền, đã bị Hải quân Trung Quốc với tiềm lực mạnh hơn tấn công. Sau sự kiện 1988 đó, Gạc ma đã mất tiếp vào tay Trung Quốc.
Năm 1995, Trung Quốc tiếp tục chiếm Bãi Vành khăn từ tay quân đội Philippines. Philippines uất ức nhưng với tiềm lực quân sự quá yếu đành nhìn Trung Quốc chiếm trọn Vành khăn.
Trung Quốc từ chỗ không kiểm soát bất cứ thực thể nào ở Trường Sa, sau khi ra tay chớp nhoáng, biến mọi sự thành chuyện đã rồi thì nay Trung Quốc đang chiếm giữ 7 thực thể tại Trường Sa. 7 thực thể này đã được Trung Quốc bồi lấp thành các đảo nhân tạo và trang bị vũ khí quân sự trên đó.
Tuy vậy, luật pháp quốc tế đã không thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại tất cả các khu vực này, cho dù Trung Quốc đang kiểm soát toàn bộ Hoàng Sa và 7 thực thể ở Trường Sa. Bởi vì luật pháp quốc tế từ sau khi Liên Hợp Quốc được thành lập, đã không chấp nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một lãnh thổ thuộc một quốc gia khác.
Tuy nhiên, Trung Quốc lại là một quốc gia gần như không biết đến sự tôn trọng luật pháp quốc tế. Chính vì vậy, một lo ngại đặt ra là liệu Trung Quốc có thể lặp lại các hành động xâm chiếm như đã từng làm trong quá khứ hay không?
Năm 2012, Trung Quốc chưa cần dùng biện pháp quân sự nhưng đã sử dụng chiến thuật “bắp cải” để ngang nhiên giành quyền kiểm soát bãi Scaborough từ tay của Philippines. Chính vì vậy, Philippines đã khởi kiện Trung Quốc ra một Hội đồng trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của Công ước luật biển 1982 (UNCLOS). Và Toà trọng tài năm 2016 đã có phán quyết lịch sử khi tuyên bố Philippines thắng cuộc.
Hiện nay, Trung Quốc một mặt đang “mua chuộc” các nước ASEAN thông qua Sáng kiến Vành đai Con đường (BRI) của họ. Với những dự án hàng tỉ USD, Trung Quốc đang “chia rẽ” các quốc gia ASEAN. Đồng tiền của họ đang khiến các quốc gia ASEAN cách biệt nhau về quan điểm. Một cuộc thăm dò gần đây của Viện nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore đã cho thấy 7 trong 10 nước ASEAN thích Trung Quốc hơn.[1] Trung Quốc còn tuyên truyền mập mờ về tình hình “ổn định” ở Biển Đông và mốc thời gian sẽ hoàn thành đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) trong 3 năm tới. Đây chính là một trong các “thủ pháp” ngoại giao của Trung Quốc, nhằm gây sức ép lên các quốc gia trong khu vực, đồng thời ngăn cản các quốc gia bên ngoài can dự vào Biển Đông.
Ông Antonio Carpio, Cựu thẩm phán Toà án tối cao Philippines, một trong những tác giả quan trọng của Phiên toà thế kỷ – Philippines kiện Trung Quốc đã cảnh báo rằng: “Trung Quốc sẽ không ngưng việc bồi lấp các đảo nhân tạo, và sẽ tiếp tục bồi lấp Scarborough, trước khi các bên ký kết COC”.[2]
Cảnh báo của ông Carpio không phải là không có cơ sở. Trong quá khứ, Trung Quốc luôn tìm mọi cách để tạo lợi thế kể cả bằng biện pháp quân sự, khiến “gạo đã thành cơm”. Thậm chí với các hành động gây hấn gần đây của Trung Quốc với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, ta có thể nhận thấy mục tiêu xuyên suốt của Trung Quốc là nhằm biến các vùng biển không có tranh chấp thành vùng biển có tranh chấp với các nước khác, nhằm ép buộc các quốc gia trong khu vực từ bỏ hợp tác khai thác với các quốc gia khác để hợp tác khai thác chung theo “cách thức” của Trung Quốc đó chính là “chủ quyền thuộc về chúng ta (Trung Quốc), gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác”.
Chính vì vậy, các quốc gia ASEAN cần tỉnh táo trước một Trung Quốc đầy gian manh và xảo trá. Sự đoàn kết của ASEAN bảo vệ được chính ASEAN trước một Trung Quốc hung hăng và đầy tham lam. Còn nếu không, các quốc gia ASEAN sẽ phải trả giá ngay trong tương lai gần.
[1] https://asia.nikkei.com/Politics/International-relations/7-of-10-ASEAN-members-favor-China-over-US-survey?utm_campaign=RN%20Free%20newsletter&utm_medium=one%20time%20newsletter%20free&utm_source=NAR%20Newsletter&utm_content=article%20link&del_type=3&pub_date=20200119093000&seq_num=4&si=%%user_id%%
[2] https://www.philstar.com/headlines/2019/10/28/1964050/china-will-sign-south-china-sea-code-after-reclamation-scarborough-carpio
https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/be-aware-of-chinese-behaviors-in-the-scs-01222020110642.html
Nhận định của giới chuyên gia Mỹ, Nhật về tác động
và hệ luỵ từ những thực thếdo TQ chiếm đóng,
bồi đắp và quân sự hoá trái phép ở Biển Đông
Trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh củng cố, bồi đắp mở rộng quân sự hoá các đảo nhân tạo phi pháp ở Biển Đông, giới chuyên gia các nước đưa ra nhiều nhận định, cảnh báo về ảnh hưởng và hệ luỵ nguy hiểm từ những thực thể này đối với an ninh ổn định và hợp tác trong khu vực.
Chuyên gia Mỹ Greg Poling từ tổ chức AMTI (Mỹ)
Ông Mỹ Greg Poling, Giám đốc tổ chức “Sáng kiến minh bạch Hàng hải châu Á” (AMTI) thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế CSIS tại Washington (Mỹ) hôm 10/1 nhận định “sai lầm nguy hiểm” khi cho rằng các tiền đồn Trung Quốc tại Biển Đông sẽ bị Mỹ tiêu diệt dễ dàng khi xẩy ra chiến tranh. Trong bài phân tích “Quan điểm chung về các căn cứ trên đảo của Trung Quốc là một sai lầm nguy hiểm”, chuyên gia Greg Poling đã không ngần ngại phản bác luồng suy nghĩ rất phổ biến hiện nay cho rằng các căn cứ quân sự mà Trung Quốc xây dựng trên 7 hòn đảo nhân tạo trong tay họ ở Biển Đông chỉ dọa được các láng giềng nhỏ bé trong vùng, chứ không thể tồn tại được trước hỏa lực hùng mạnh của quân Đội Mỹ. Ông hoài nghi về việc liệu Mỹ có thể vô hiệu hóa dễ dàng các tiền đồn quân sự mà
Trung Quốc xây dựng trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông hay không, xuất phát từ một giả định rất phổ biến hiện nay là các tiền đồn đó rất xa đất liền Trung Quốc do vậy không thể làm gì được trước một lực
lượng thống trị trên không và trên biển hiện nay như là quân đội Mỹ. Ông Poling cho rằng giả định đó không đúng. Trên thực tế, vào lúc chiến sự bùng lên, chính Trung Quốc, chứ không phải Mỹ, sẽ là bên kiểm soát vùng biển và không phận Biển Đông nhờ vào các căn cứ của họ trên các đảo nhân tạo. Bên cạnh đó, với cách bố trí lực lượng hiện nay của Mỹ trong khu vực, trong giai đoạn đầu của một cuộc xung đột, Mỹ sẽ phải mất rất nhiều công sức và tổn thất trước khi vô hiệu hóa được các tiền đồn đó để có thể tung lực lượng vào Biển Đông. Điều này cho thấy giá trị quân sự đáng kể của các tiền đồn đó đối với Bắc Kinh.
Chuyên gia Ankit Panda từ “The Diplomat” (Nhật Bản)
Biên tập viên cao cấp của chuyên san Nhật Bản “The Diplomat” Ankit Panda hôm 15/1 nhấn mạnh thêm “giá trị quân sự đáng kể” của các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã bồi đắp ở vùng quần đảo Trường Sa. Hầu hết những người theo dõi tình hình Biển Đông đều cho rằng các căn cứ Trung Quốc trên các đảo nhân tạo có giá trị thay đổi tương quan lực lượng Mỹ-Trung trong một cuộc xung đột tương lai, trong lúc quan điểm phổ biến tại Mỹ lại coi thường các nhân tố đó, cho rằng chúng không có giá trị chiến lược nào vì có thể bị tiêu diệt dễ dàng. Chuyên gia Ankit Panda tán đồng quan điểm từ phân tích của ông Greg Poling trong bài viết đăng trên trang mạng “War on the Rocks” cho rằng các tiền đồn mà Trung Quốc xây dựng gấp rút ở vùng Trường Sa sẽ là một nhược điểm chiến lược của Bắc Kinh trong một cuộc xung đột. Đối với biên tập viên Ankit Panda, các thực thể phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông trước hết có giá trị trong thời bình. Các tiền đồn này cho phép Bắc Kinh tiến hành các hoạt động cưỡng chế nhắm áp đặt yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, chống lại các bên tranh chấp khác như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan, cũng như Indonesia cũng bị Trung Quốc tranh chấp một phần vùng đặc quyền kinh tế. Còn trong thời chiến, theo ông Panda, các tiền đồn Trung Quốc ở Trường Sa không chỉ là bia đỡ đạn, sẽ góp phần tăng cường hỏa lực của Trung Quốc, cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hiện trường và phục vụ công tác hậu cần. Ngoài ra, Bắc Kinh cũng có địa thế tốt để sử dụng tên lửa chống hạm và phòng không trên các cơ sở này để ngăn chặn hải quân Mỹ và các nước khác trong khu vực.
Thậm chí không quân Trung Quốc vẫn có khả năng xuất phát từ các căn cứ ở Trường Sa để gây khó khăn cho lực lượng Mỹ trong trường hợp xẩy ra xung đột. Trung Quốc đã có ba phi đạo dài trên Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn và Đá Xu Bi đủ sức cho chiến đấu cơ sử dung. Các sân bay này có thể bị Mỹ tấn công ngay từ đầu, nhưng không thể bị phá hủy hoàn toàn và Trung Quốc có thể khôi phục các đường bay không lâu sau một cuộc tấn công. Trong bài phân tích của mình, chuyên gia Greg Poling từng nêu bật ví dụ cuộc tấn công bằng tên lửa hành trình của Mỹ vào căn cứ không quân Syria Shayrat năm 2017, đã thất bại trong việc vô hiệu hóa được căn cứ này. Mặt khác, theo ông Panda, do việc diện tích các đảo nhân tạo khá lớn, như trong trường hợp Đá Vành Khăn và Xu Bi, để có thể phá hủy được hoàn toàn các cơ sở mà Trung Quốc dùng làm điểm tựa cho hải quân, không quân và có thể là lực lượng tên lửa của họ trong tương lai, Mỹ sẽ cần đến một khối lượng rất lớn tên lửa tầm xa có độ chính xác cao, điều có lẽ khó thực hiện được. Chuyên gia Panda còn nêu thêm một giá trị quân sự khác của các tiền đồn Trung Quốc tại Trường Sa và Hoàng Sa không được ông Poling nêu lên. Đó là làm căn cứ cho lực lượng tàu ngầm tên lửa đạn đạo của Trung Quốc đang hình thành. Theo ông Panda, trước những quan ngại về khả năng lực lượng hạt nhân trên bộ của mình dễ bị triệt hạ trong một cuộc xung đột, Trung Quốc đã muốn đưa tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân loại 094 của mình vào Biển Đông để khi cần thiết, tìm cách thâm nhập vào chuỗi đảo đầu tiên để phóng tên lửa đạn đạo JL-2 (loại trang bị cho tàu ngầm) tấn công các mục tiêu trên lãnh thổ Mỹ. Tàu ngầm loại 094 của Trung Quốc nhất thiết phải đến được chuỗi đảo thứ nhất vì loại tên lửa JL-2 không đủ tầm bắn để tấn công nước Mỹ từ Biển Đông.
Các tiền đồn Trung Quốc ở Trường Sa có thể góp phần đáng kể vào việc giúp Bắc Kinh, không chỉ là ngăn chặn hoạt động của hải quân Mỹ ở Biển Đông, qua đó tăng cường khả năng sống còn của các tàu ngầm tấn công hạt nhân được triển khai khi xung đột nổ ra, mà còn trở thành địa bàn từ đó tung ra các chiến dịch chống ngầm, phát hiện và đẩy lùi các phương tiện giám sát dưới đáy biển của Mỹ, bao gồm cả tàu ngầm và các loại tàu lặn tự hành khác. Các đảo nhân tạo của Trung Quốc từ lâu đã bi coi là biểu hiện cụ thể của các hành vị coi thường luật pháp và thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông sao cho có lợi cho Bắc Kinh. Trong lúc mục đích chính của các đảo nhân tạo này có thể là nhằm khẳng định các yêu sách chủ quyền đáng ngờ của Trung Quốc, thì trong thời chiến, chúng có thể phát huy năng lực quân sự.