Cuộc khủng hoảng sắp tới của chế độ độc đảng Trung Quốc
22/9/2019
Vào ngày 1 tháng 10 năm nay, để đánh dấu 70 năm ngày quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ có bài phát biểu nhằm ca ngợi thành tích của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kể từ năm 1949. Nhưng bất chấp sự tự tin và lạc quan rõ ràng của ông Tập, các thành viên trên dưới của Đảng ngày càng lo lắng cho triển vọng tương lai của chế độ – với những lý do chính đáng.
Vào năm 2012, khi Tập lên nắm quyền lãnh đạo ĐCSTQ, ông đã hứa rằng Đảng sẽ cố gắng mang lại những thành công vĩ đại trước thềm hai lễ kỷ niệm một trăm năm sắp tới, đó là ngày thành lập ĐCSTQ vào năm 1921 và ngày quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949. Nhưng một sự suy giảm kinh tế dai dẳng và căng thẳng gia tăng với Hoa Kỳ có thể sẽ làm xáo trộn tâm trạng của ĐCSTQ trong lễ kỷ niệm năm 2021. Và chế độ độc đảng thậm chí có thể không tồn tại được cho đến năm 2049.
Mặc dù về mặt kỹ thuật không có giới hạn thời gian đối với một chế độ độc tài, nhưng ĐCSTQ đang đến gần với giới hạn tuổi thọ dành cho cho chế độ độc đảng. Đảng Cách mạng Thể chế Mexico từng nắm giữ quyền lực trong 71 năm (1929-2000); Đảng Cộng sản Liên Xô cầm quyền trong 74 năm (1917-1991); và Quốc Dân Đảng ở Đài Loan nắm quyền trong 73 năm (từ 1927 đến 1949 ở đại lục và từ 1949 đến 2000 tại Đài Loan). Chế độ Bắc Triều Tiên, một triều đại gia đình trị kiểu Stalinist đã cai trị 71 năm, hiện là đối thủ cạnh tranh đương thời của ĐCSTQ.
Nhưng các mẫu hình lịch sử không phải là lý do duy nhất khiến ĐCSTQ phải lo lắng. Các điều kiện cho phép chế độ phục hồi sau các thảm họa tự gây ra của chủ nghĩa Mao và trở nên thịnh vượng trong bốn thập niên qua phần lớn đã được thay thế bởi một môi trường ít thuận lợi hơn – và một số khía cạnh đã trở nên nhiều thù địch hơn.
Mối đe dọa lớn nhất đối với sự tồn tại lâu dài của Đảng nằm ở cuộc chiến tranh lạnh đang diễn ra với Mỹ. Trong phần lớn thời kỳ hậu Mao, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã giấu mình trên trường quốc tế, cố gắng tránh xung đột trong khi xây dựng sức mạnh trong nước. Nhưng đến năm 2010, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc kinh tế, theo đuổi chính sách đối ngoại ngày càng phô trương cơ bắp. Điều này đã làm bất an Hoa Kỳ, nước đã bắt đầu dần dần chuyển từ chính sách can dự sang chính sách đối đầu vốn đã rõ ràng hiện nay.
Với khả năng quân sự, công nghệ, hiệu quả kinh tế vượt trội cùng mạng lưới liên minh (vẫn mạnh mẽ bất chấp sự lãnh đạo mang tính phá hoại của Tổng thống Donald Trump), Mỹ có nhiều khả năng thắng thế trong cuộc chiến tranh lạnh Trung-Mỹ hơn so với Trung Quốc. Mặc dù chiến thắng của Mỹ có thể sẽ rất tốn kém, nhưng nhiều khả năng Mỹ sẽ định đoạt được số phận của ĐCSTQ.
ĐCSTQ cũng phải đối mặt với những thách thức kinh tế lớn. Cái gọi là phép màu của Trung Quốc được thúc đẩy bởi một lực lượng lao động lớn và trẻ, đô thị hóa nhanh chóng, đầu tư cơ sở hạ tầng quy mô lớn, tự do hóa thị trường và toàn cầu hóa – tất cả các yếu tố này đã suy giảm hoặc biến mất.
Những cải cách rốt ráo – đặc biệt là trong việc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả và chấm dứt các chính sách thương mại tân trọng thương – có thể duy trì đà tăng trưởng. Nhưng, dù hô hào cải cách thị trường hơn nữa, nhưng ĐCSTQ miễn cưỡng thực hiện chúng, thay vào đó lại bám vào các chính sách có lợi cho các doanh nghiệp nhà nước và gây hại cho các doanh nghiệp tư nhân. Do khu vực nhà nước đóng vai trò nền tảng kinh tế cho chế độ độc đảng, nên triển vọng các lãnh đạo ĐCSTQ sẽ đột nhiên ủng hộ cải cách kinh tế triệt để là mờ mịt.
Xu hướng chính trị trong nước cũng đáng lo ngại tương tự. Dưới thời ông Tập, ĐCSTQ đã từ bỏ chủ nghĩa thực dụng, sự linh hoạt về ý thức hệ và lãnh đạo tập thể vốn đã rất hiệu quả trong quá khứ. Với sự áp dụng chủ nghĩa tân Mao của Đảng – bao gồm tuân thủ nghiêm ngặt ý thức hệ, kỷ luật tổ chức cứng nhắc và chế độ cai trị một người dựa trên việc gieo rắc nỗi sợ hãi – rủi ro của những sai lầm chính sách thảm khốc đang gia tăng.
Chắc chắn là ĐCSTQ sẽ không chịu sụp đổ mà không nỗ lực đấu tranh chống lại điều đó. Khi sự kiểm soát quyền lực suy yếu dần, có lẽ Đảng sẽ cố gắng khơi dậy chủ nghĩa dân tộc trong số những người ủng hộ, đồng thời tăng cường đàn áp những người chống đối.
Nhưng chiến lược này không thể cứu vãn nổi chế độ độc đảng của Trung Quốc. Mặc dù chủ nghĩa dân tộc có thể tăng cường sự ủng hộ dành cho ĐCSTQ trong ngắn hạn, năng lượng của nó cuối cùng sẽ tiêu tan, đặc biệt là nếu Đảng không thể tiếp tục cải thiện mức sống cho người dân. Và một chế độ phụ thuộc vào cưỡng ép và bạo lực sẽ phải trả giá đắt vì hoạt động kinh tế sẽ bị kìm nén, sự kháng cự của người dân gia tăng, chi phí an ninh leo thang, đi kèm với sự cô lập quốc tế.
Đây không phải là bức tranh đáng phấn khởi mà ông Tập sẽ trình bày cho người dân Trung Quốc vào ngày 1 tháng 10 tới. Nhưng không có liều lượng dân tộc chủ nghĩa nào có thể thay đổi được thực tế rằng sự tan rã của chế độ ĐCSTQ hiện đang đến gần hơn bao giờ hết kể từ khi kết thúc thời đại của Mao.
Minxin Pei – Phan Nguyên dịch:
Nguồn: Minxin Pei, “The Coming Crisis of China’s One-Party Regime”, Project Syndicate, 20/09/2019.
* Minxin Pei là giáo sư ngành quản trị chính quyền của Đại học Claremont McKenna và là tác giả cuốn China’s Crony Capitalism.